Đó là nghệ nhân Kỳ Hữu Phước (66 tuổi), ở
làng Sình (còn gọi là làng Lại Ân, xã Phú Mậu, huyện Phú Vang, Thừa
Thiên - Huế); với hơn 60 năm làm tranh dân gian...
Theo lời ông
Phước, vào khoảng cuối thế kỷ XIV đầu thế kỷ XV, cùng với dòng người
theo chân Chúa Nguyễn vào đất Thuận Hóa lập nghiệp, cụ tổ Kỳ Hữu Hòa đã
mang theo nghề làm tranh giấy mộc bản vào làng Sình định cư và truyền
dạy. Đến nay, tranh làng Sình có gần 500 năm tuổi. Khác với dòng tranh
dân gian mộc bản Đông Hồ (Bắc Ninh), tranh Hàng Trống (Hà Nội) thì tranh
làng Sình được dùng để thờ cúng và hóa sau khi cúng lễ.
Tranh gồm 3 loại: Tranh nhân vật, tranh đồ vật và
tranh súc vật, trong đó, tranh nhân vật gồm 2 bộ thế mạng và bổn mạng,
nhưng chủ yếu là tranh tượng bà (tượng đế, tượng chùa, tượng ngang)
thường dùng dán trên bàn thờ quanh năm... Làm tranh Sình hết sức công
phu, từ xén giấy, quét điệp, in tranh trên mộc bản, phơi tranh, pha màu,
tô màu, cuối cùng là điểm nhãn.
Để có giấy in, người dân làng Sình xuôi thuyền dọc phá
Tam Giang về vùng cầu Hai - Lăng Cô để cào điệp về giã thành bột, rồi
trộn với hồ. Sau đó phết hỗn hợp này hai lần lên giấy dó. Khi phơi khô,
hỗn hợp sẽ tạo nên màu trắng thuần khiết của loại giấy làm tranh làng
Sình. Màu để tô tranh nghệ nhân cũng rất kỳ công mới có được. Màu đỏ
được làm từ rễ cây vang ở đại ngàn Trường Sơn; màu xanh làm bằng thân,
rễ và hoa của cây dành dành mọc ở khe suối lấy vào mùa hè; màu vàng được
làm từ lá đung trộn với hoa hòe.
Ba loại màu trên đều bỏ nguyên liệu vào nồi đất nấu từ
3 đến 5 ngày mới chiết ra màu. Còn màu cam lấy từ những viên gạch mục,
đem mài mịn ra trộn với keo da trâu; màu tím thì lấy từ trái mồng tơi;
màu đen là màu của tro bếp trộn với nước màu đen lấy từ lá cây bàng tươi
ngâm trong nước lâu ngày. Cầu kỳ, tốn không ít công sức, thu nhập từ
việc bán tranh chẳng bao nhiêu từ 20.000 - 50.000 đồng/ngày, vậy nhưng
ông Phước vẫn quyết tâm giữ lấy nghề truyền thống của cha ông...