Nói
về diện mạo mỹ thuật Việt Nam, kể từ hai thập niên cuối cùng của thế kỷ
trước, khó có thể hình dung đầy đủ nếu thiếu Công Quốc Hà - một họa sĩ
Hà Nội.
Ông
là họa sĩ sơn mài kể từ khi ra trường, chịu ảnh hưởng nhiều ở người
thầy Kim Ðồng và danh họa Nguyễn Sáng. Nhưng sự ảnh hưởng ấy có lẽ chỉ
mang ý nghĩa ước lệ; hoặc cụ thể hơn, như một hành trang ban đầu; bởi
những gì mà ông đóng góp trong quá trình sáng tạo đã hoàn toàn vượt khỏi
những sức ép tâm lý thông thường trước bối cảnh xã hội và nghệ thuật
đầy biến động, với bao đòi hỏi quyết liệt về sự dấn thân của cả một thế
hệ nghệ sĩ.
Ra trường năm 1979, Công Quốc Hà xuất
hiện như một họa sĩ sơn mài chững chạc, tài hoa và bản lĩnh. Ông không
mất nhiều thời gian cho việc chạy theo những khuynh hướng lạ lẫm thời
thượng, ở đó, theo ông, những biểu hiện của chủ nghĩa hình thức chỉ làm
người ta lóa mắt trong thời gian ngắn ngủi bởi nhận thức con người luôn
vận động và những đòi hỏi nội tâm trước ý nghĩa nhân văn từ nội dung tác
phẩm là vấn đề vĩnh cửu. Tác phẩm "Ra khơi trở về" được vẽ năm 1980
cùng loạt tranh sơn mài khác của ông là một thí dụ. Ở tác phẩm này, con
người và thiên nhiên có sự giao hòa đến cảm động. Những nhân vật nhỏ bé
trước những con thuyền lớn. Bão tố dữ dằn, rập rình sống chết hằn in nơi
cánh buồm đang cuộn lại và bầu trời mặt sóng như vẫn còn vần vụ trỗi
lên. Những chủ nhân của sự sống trở về lẫn vào tất cả, thản nhiên làm
nốt phần việc trên thuyền, để lại lo toan cho một hành trình mới. Không
gian bình thản, cái bình thản đến lặng thầm của sinh nhai lam lũ và nguy
hiểm. Công Quốc Hà khắc họa điều đó thay vì vẽ những con thuyền cá tôm
đầy ắp với chợ người chợ cá hể hả niềm vui. Tác giả cho ta cái nhìn nhân
văn rất riêng ngay từ ngày ấy.
Ở
Công Quốc Hà, khả năng vượt lên để khẳng định mình có từ rất sớm, khi
ông chọn học sơn mài, rồi chọn sơn mài làm đối tượng nghiên cứu, thể
nghiệm và sáng tác trong ngót 30 năm nay. Tôi tin có một sự mách bảo may
mắn nào đó của đất trời và duyên phận; mà điều này, tôi nghĩ, ông không
thể cưỡng lại hay không bao giờ có một mảy may cưỡng lại trước rủ rê
cám dỗ đầy ma lực từ các loại hình cùng chất liệu của nghệ thuật đương
đại. Số phận đã buộc ông với sơn mài và cho ông nhiều may mắn, và chính
ông đã trả nghĩa cho số phận bằng thành quả lao động đầy sáng tạo, góp
phần làm chất liệu sơn mài trở nên sang trọng, và đặc biệt có khả năng
ám ảnh nội tâm hơn.
Người
ta nói nhiều suốt hai thập kỷ nay về những tranh phố Hà Nội của Công
Quốc Hà. Quả thực, tranh phố của ông không lẫn với ai, không lẫn vào đâu
được; không hề gợi cho người xem một na ná Bùi Xuân Phái với những phố
nhà xô lệch. Tranh phố Hà Nội của Công Quốc Hà là tập hợp những khái
niệm, ở đó, hình nhà, mái ngói có tính trừu tượng, được ấn định bởi
những đường viền ngang dọc to khỏe, quyết liệt như muốn khẳng định sức
sống trường tồn của mảnh đất có bề dày văn hiến. Không phải ngẫu nhiên
trong tranh phố Hà Nội của ông, bao giờ cũng xuất hiện một hai lỗ nhỏ,
khi là vòm cổng, khi là lỗ thông hơi vòm mái. Tôi chợt mỉm cười một mình
khi liên tưởng đến con mắt phố phường của họa sĩ đang đăm chiêu nhìn
vào thực tại. Với tranh phong cảnh, những tiết độ quyết đoán ở nét có
giảm đi đôi chút để các hòa sắc được thể trải ra cho người xem nhận về
những thông điệp trữ tình bay bổng. Tác phẩm "Chợ hoa tết Hà Nội" được
ông vẽ trong mạch tư duy ấy khi đặt mấy nhóm người rất nhỏ mua và bán
sát dưới chân tranh, còn toàn bộ không gian mênh mông, ông dành cho sự
hiển hiện của các mái nhà, và tán cây cổ thụ. Thì ra, tác giả không miêu
tả phiên chợ, mà là miêu tả một cuộc đua chen đầy kịch tính của sự
sống, trước sắc màu chợ hoa, trước con người nô nức đến với chợ hoa
trong thời khắc chuyển mùa, những mái nhà rêu phong, những cành cây cổ
thụ dường như cũng muốn vặn mình sinh nở, muốn bung ra giữa thanh thiên
bạch nhật cái hương sắc riêng mình.
Phố cổ đêm trăng (Tranh sơn mài).
Vượt lên tất cả lại là khả năng sáng
tạo của ông khi đưa vẻ đẹp phụ nữ vào tác phẩm sơn mài. Những cô nữ
sinh, những em bé, những thiếu phụ với vẻ đẹp sang trọng thuần khiết từ
hình thể được vuốt mảnh trong tà áo dài Hà Nội. Không hề thấy dấu ấn của
buồn khổ, dằn vặt trong nét mặt dáng ngồi của đối tượng chủ thể. Những
tà áo dài, phần lớn là áo dài hoa với họa tiết rất đặc trưng của Công
Quốc Hà như hé như gợi người xem một thoáng nội tâm nhân vật, thầm thì
trong sắc màu lộng lẫy, hoặc trầm ấm, có khi pha chút lảnh lói của vàng
của bạc đủ nói lên điều sang trọng mà không gợn kiêu sa. Trong toàn bộ
sáng tác về đề tài phụ nữ, phần lớn vẽ một người, khi soi gương, chải
tóc, khi ngồi bên bể cá, chậu cây, ta bỗng nhận ra ông không vẽ một
người, nhân vật của ông không hề đơn độc, dường như họ vừa mới chuyện
trò, tâm sự cùng ai, hoặc nói với bóng mình trong gương, hoặc gửi nỗi
niềm vào con chim, con cá, chậu cây hoặc đang nói với con người thứ hai
của mình, con người đó ẩn hiện trong từng tiết độ hút hồn nơi không gian
sơn mài mơ mộng. Tôi để ý mái tóc những người phụ nữ trong tranh và
nhận ra chỉ riêng ông mới có điều lạ ấy. Những mái tóc khi bồng bềnh như
mây, như khói, khi chảy dài thẳng đứng như thác đổ, khi lại như những
hình lập thể kỷ hà. Những mái tóc ấy làm cân bằng bố cục và màu sắc, là
một điểm nhấn, là một tuyên ngôn của vẻ đẹp phụ nữ. Cứ miệt mài mà ngắm,
kể cả loạt tranh khỏa thân - cái đẹp không hề gợi tục, thì mái tóc, bàn
tay của nhân vật có khả năng chuyện trò cùng ta hơn cả. Thì ra, Công
Quốc Hà vẽ tóc bằng một cảm quan riêng, là thủ pháp riêng không dễ gì sẻ
chia ai được.
Sinh
năm 1955 trong một gia đình Hà Nội gốc, gia thế và thanh lịch. Con
người cùng lối sống của Công Quốc Hà phả vào tác phẩm như một tấm gương
trung thực và sinh động - Ấy là những tác phẩm thắm đằm màu sắc và nhân
hậu tình người. Nhiều người suốt đời thủy chung với sơn mài và có thể
một vài thành công đến với họ từ chất liệu ấy, nhưng để biến chất liệu
ấy thành phong cách cá nhân trong hội họa, theo nhận xét mà tôi tâm đắc
của nhà phê bình mỹ thuật Quang Việt thì Công Quốc Hà là một trong rất
ít họa sĩ đã làm được điều đó.
Theo: cinet.vn