Các cô gái người Dao ở bản Mậu (Bắc Giang) tham gia lớp học dạy nghề thêu thổ cẩm.
Cuối thu này, chúng tôi ngược đường qua xứ sở của vải thiều
Lục Ngạn để lên với vùng rừng núi dưới chân Tây Yên Tử (huyện Sơn Động,
Bắc Giang). Ở đó có bản Mậu của người Dao, một mô hình làm tốt việc bảo
tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống thông qua việc phục hồi
nghề thêu thổ cẩm.
Trưởng phòng Văn hóa - Thông tin huyện Sơn Động La Triệu
Vân dẫn đoàn chúng tôi lên Tây Yên Tử đúng vào dịp cuối mùa thu, khi
tiết trời se lạnh và cũng là lúc những thửa ruộng dưới thung sâu ngả mầu
vàng rộm.
Ngước nhìn lên đỉnh Tây Yên Tử, những cây phong, cây
keo lá đang dần ngả sang mầu vàng. Những cây kim giao, loại cây dùng làm
đũa chống độc, cao vút như chực "gắp" cả trời xanh. Bản làng đan xen
rừng cây, đồi núi, khiêm nhường nằm nép mình dưới chân núi, giữa bảng
lảng mây trời như thêm phần huyền ảo trong sương sớm, khơi dậy bao cảm
giác mong muốn khám phá. Anh Triệu Vân cho biết, bản Mậu là "cái nôi"
của "Làng gái đẹp" nức tiếng từ xa xưa khắp trong nam ngoài bắc.
Bản
Mậu cũng giống như bao làng quê khác ở vùng sơn cước này, chỉ khác là
bao trùm lên nơi đây là một không gian yên tĩnh đến trầm mặc, không hề
nghe tiếng chó sủa, gà gáy, thậm chí cả tiếng người nói to. Đây quả là
một địa chỉ du lịch sinh thái và du lịch cộng đồng thú vị.
Tới nhà
văn hóa bản Mậu thuộc UBND xã Tuấn Mậu, những người dân tay bắt, mặt
mừng cùng những ánh mắt trìu mến, thân thiện như đón người thân đi xa
trở về. Anh Triệu Vân vui vẻ nói: "May cho các bác là con đường đất từ
thị trấn Thanh Sơn vào đây vừa hoàn thành cho nên mới đi lại rộng rãi,
bằng phẳng thế này. Trước đây, có những đoàn vào đến bản Mậu có lúc phải
xuống đi bộ, mất đến vài tiếng đồng hồ". Chúng tôi vào bản Mậu mang
theo niềm háo hức từ câu chuyện với các bậc cao niên trong vùng khi giải
thích rằng, sở dĩ ở bản Mậu có nhiều cô gái đẹp vì trước đây trong làng
có một cái giếng gọi là "giếng thần", các cô gái chỉ cần múc nước ở đó
về tắm là bỗng dưng nước da trở nên mịn màng, trắng nõn nà và mái tóc
đen mướt chảy dài xuống tận khoeo chân. Không bỗng dưng, du khách và
người dân trong vùng lại đặt cho bản Mậu cái tên "Làng gái đẹp".
Theo
anh Triệu Vân, gái bản Mậu ngày nay vẫn xinh đẹp, mặn mà đằm thắm như
xưa. Vào những năm 90 thế kỷ trước, có người đẹp Bàn Thị Giảng đã đoạt
giải Người đẹp miền núi phía bắc. Những năm gần đây, có Trịnh Thị Hương
cũng đoạt giải ở cuộc thi người đẹp tại thành phố hoa Đà Lạt năm 2010 và
mới đây nhất, năm 2012, tại cuộc thi người đẹp Bắc Giang, Trịnh Thị
Tuyết cũng đoạt danh hiệu Hoa khôi thân thiện cấp tỉnh.
Các cụ cao
niên trong bản cho hay, trước đây, gái bản Mậu không chỉ đẹp về hình
thức mà còn giỏi thêu thùa, nấu ăn và giao tiếp. Các bà, các chị trước
đây luôn luôn dạy con em mình học thêu trang phục cá nhân từ khi mới lên
năm, sáu tuổi. Mỗi năm, một người ít nhất phải tự tay thêu được một vài
đồ dùng cho mình để diện vào các ngày lễ, Tết. Sau nữa những thứ ấy sẽ
là hành trang trước khi các cô về nhà chồng. Vào các dịp lễ, Tết, các cô
gái Dao thường khoe những bộ váy áo lộng lẫy sắc mầu do chính tay mình
làm ra, xúng xính vòng bạc đi chơi chợ phiên và du xuân.
Tuy
nhiên, do xu hướng biến đổi trong đời sống kinh tế - xã hội, đồng bào
dân tộc Dao ở bản Mậu cũng có những đổi thay. Một số nghề mới được phát
sinh và một số nghề truyền thống bị mai một, trong đó có nghề thêu thổ
cẩm của bản bị thất truyền khoảng vài chục năm trở lại đây.
Để
nghề thêu truyền thống của người Dao không bị mai một đi, gần đây có
người về đầu tư, hỗ trợ kinh phí phục hồi lại và với sự tâm huyết, nhiệt
tình của các nghệ nhân lớp trước, nghề thêu thổ cẩm của người dân tộc
Dao đã dần dần được khôi phục với việc mở các lớp dạy thêu, thu hút hàng
chục thiếu nữ Dao tham gia. Trong hai năm tổ chức lớp học, các em không
quản đường sá đi lại khó khăn, đều đặn rủ nhau đến lớp. Giáo viên là
các bà, các mẹ và các chị thành thạo nghề thêu từ trước đến đây truyền
lại cho con cháu. Các nghệ nhân như: Bàn Thị Duyên, Bàn Thị Sơn, Bàn Thị
Bình, Triệu Thị Xoan, Đặng Thị Loan là những người vừa tâm huyết với
nghề thêu truyền thống của dân tộc mình, vừa có công truyền lại nghề cho
các cháu. Các em Triệu Thị Thêm, Bàn Thị Trang, Bàn Thị Vy, Triệu Thị
Huyền là những học viên chăm ngoan, tinh ý trong học tập nên đã nắm bắt
kỹ thuật thêu khá nhanh.
Đặc biệt lớp học luôn được sự ủng hộ,
hưởng ứng nhiệt tình của nhân dân, các ban, ngành, đoàn thể và chính
quyền địa phương, cho nên được duy trì khá ổn định và đạt hiệu quả cao
từ khi thành lập đến nay. Với 50 học viên và tám nghệ nhân, lớp học
truyền dạy nghề thêu đã hoạt động đều đặn và được duy trì trong suốt hai
năm qua. Người thành nghề ra về với thôn, bản thì lại có một lớp mới
vào thay, thậm chí có nhiều em nhỏ cũng xin được tham gia. Lớp được chia
làm ba tổ ở thôn Tân Lập, thôn Thanh Chung, và bản Mậu. Mỗi tuần hai
buổi học tập trung, còn lại tự học ở nhà. Học viên gồm nhiều lứa tuổi
khác nhau, có em mới lớp một, lớp hai, có chị đã có gia đình. Mặc dù các
em bận học tập và giúp bố mẹ việc nhà, còn các chị bận con cái gia
đình, ruộng nương, nhưng mọi người đều cố gắng thu xếp thời gian để tham
gia lớp học đầy đủ.
Với sự truyền dạy tận tình của các nghệ nhân,
đến nay hầu hết học viên đã biết thêu những đường nét cơ bản, có em
tiếp thu nhanh đã thêu khá thành thạo. Ngoài việc tổ chức theo địa bàn
các thôn, lớp học cũng được chia theo lứa tuổi để các em dễ tiếp thu. Em
nào tiếp thu chậm còn được "giáo viên" hướng dẫn thêm ngoài giờ. Nhờ
vậy, có học viên đã tự tay thêu được cả bộ trang phục dân tộc Dao cho
mình, có người đã thêu được khăn, áo, mũ khá đẹp, những cái mà trước đây
các em chưa từng mơ tới. Đến thăm một lớp học tại nhà văn hóa của bản
vào ngày nghỉ cuối tuần, thấy các nghệ nhân cần mẫn, miệt mài truyền
nghề cho lớp con cháu, đều là con em đồng bào dân tộc Dao. Nghệ nhân
Triệu Thị Xoan, 55 tuổi, ở bản Mậu cho biết: "Lúc đầu, để tổ chức được
lớp học thêu này, các bà, các bác đã phải đến từng gia đình vận động tạo
điều kiện về thời gian cho con em mình theo học nghề. Vì ngoài giờ học
văn hóa ở trường, các em vẫn thường xuyên cùng bố mẹ làm nương rẫy hay
việc nhà. Sau một thời gian vận động, nhiều phụ huynh đã hiểu và động
viên con, em mình theo học".
Bà Xoan cho biết thêm: "Đối với thế
hệ trẻ bây giờ, học thêu không chỉ là sự đam mê tức thời, mà còn là
trách nhiệm trong việc gìn giữ nghề truyền thống của dân tộc mình, nên
phải kiên trì, không được bỏ giữa chừng". Học viên bé tuổi nhất của lớp
học này là em Bàn Thị Vy mới hơn 10 tuổi, kể cho chúng tôi nghe: "Buổi
tối, sau khi xong việc nhà, em thường đến nhà văn hóa của bản để học
thêu. Được các bà, các bác truyền dạy tỉ mỉ từng bước một, hiện giờ em
đã biết thêu một số đường nét đơn giản như các đường thẳng, đường vắt
chéo. Em sẽ cố gắng chăm chỉ học để có thể thêu được những đồ dùng
truyền thống của dân tộc mình". Các nghệ nhân ở đây cho biết, học thêu
không quá khó, ai cũng có thể học được.
Nhưng để thành thạo, đòi
hỏi người học phải có lòng đam mê và kiên trì, tỉ mỉ, khéo léo trong
từng đường kim mũi chỉ. Những kiến thức cơ bản ban đầu như nhận biết
đường kim, mũi chỉ, học cách thêu cho thẳng hàng. Sau đấy mới học đến
những công đoạn phức tạp như thêu các họa tiết, hoa văn cầu kỳ.
Người
Dao cũng như phần lớn đồng bào các dân tộc thiểu số, trước đây đều tự
tay dệt vải để may, thêu trang phục cho mình. Chỉ sau này cuộc sống có
nhiều đổi thay, nghề dệt vải cũng vì thế mà thất truyền, bà con phải ra
chợ mua vải và chỉ về để thêu, may lấy đồ dùng. Để hoàn thành một bộ
trang phục nữ đầy đủ của người Dao gồm: quần, áo, khăn, mũ, xà cạp, yếm
thông, người thạo nghề cũng phải làm mất 4 - 5 tháng liên tục.
Bằng
việc mở các lớp dạy nghề thêu, nghề thêu thổ cẩm truyền thống của người
Dao bản Mậu đã mang lại thu nhập và tham gia phát triển du lịch cộng
đồng, từng bước ổn định đời sống cho người dân địa phương, góp phần bảo
tồn một cách thiết thực và hiệu quả các giá trị văn hóa dân tộc.
Theo
Trưởng phòng Văn hóa -Thông tin huyện Sơn Động La Triệu Vân, cùng với
những đổi thay mà bản Mậu người Dao là một điển hình, đời sống kinh tế,
văn hóa - xã hội ở các thôn, bản của xã Tuấn Mậu cũng đã và đang có
nhiều chuyển biến tích cực.
Đây là xã miền núi đặc biệt khó khăn
của huyện Sơn Động, tỉnh Bắc Giang với 512 hộ, 2.120 nhân khẩu, gồm bảy
dân tộc anh em cùng chung sống đan xen ở các thôn, bản, bao gồm: Kinh,
Dao, Tày, Nùng, Cao Lan, Sán Chí, Hoa. Ngày nay, đồng bào các dân tộc
thiểu số trong vùng đang được tiếp thu nhiều kỹ thuật, công nghệ mới,
được giao lưu, học hỏi và có điều kiện học "nhiều cái chữ" hơn so với
trước đây. Điều đó đã mang lại những hiểu biết, nâng cao dân trí, nhất
là cho thế hệ thanh niên người Dao nhưng cũng dẫn đến mai một các giá
trị văn hóa truyền thống. Có thể nói, sự quan tâm phục hồi nghề thêu thổ
cẩm của bản Mậu là một hướng đi đúng, cần nhân rộng để học tập ở các
vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi.
Theo: Nhandan.org.vn