“Khó khăn hơn cả thời kỳ khủng hoảng năm
2008-2009”, đó là nhận định của các doanh nghiệp, hợp tác xã (HTX) xuất khẩu
hàng thủ công mỹ nghệ khi đề cập tình hình sản xuất, kinh doanh mặt hàng này
trong năm 2011.

Xã viên
HTX Hiệp Lực (Đồng Nai) đan giỏ từ lục bình để xuất khẩu qua châu Âu
Hiện nhiều đối tác tìm
kiếm nguồn hàng nhưng nhiều đơn vị xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ không dám
nhận đơn hàng vì vừa làm vừa lo lỗ do chi phí đầu vào tăng mạnh, bất ổn định.
Thu nhập giảm sút
Cuối tháng 7-2011, tại
HTX sản xuất mành trúc Bình Minh (Q.Phú Nhuận, TP.HCM), khoảng 40 xã viên vẫn
luôn tay làm việc, người sơn phết trang trí mành trúc, người đóng gói sản
phẩm... thậm chí có cả tiếng trẻ con cười khúc khích.
Tuy nhiên, ông Nguyễn
Văn Nguyên, chủ nhiệm HTX, cười buồn giải thích: “Lúc này đơn hàng chỉ đủ để xã
viên làm, còn quá nửa lao động vệ tinh (khoảng 500 lao động) của HTX tại các
huyện Củ Chi, Hóc Môn (TP.HCM), Tây Ninh phải nghỉ việc. Năm trước, đơn hàng
nhiều, mỗi xã viên có thể thu nhập 3-4 triệu đồng/tháng nhưng đến thời điểm này
cao lắm cũng chỉ được 2,5 triệu đồng/tháng. Mấy đứa trẻ là con của xã viên theo
cha mẹ đi làm vì không đủ tiền gửi nhà trẻ!”. Hiện nay, HTX chỉ xuất khẩu được
1 container/tháng thay vì 3-4 container như đầu năm 2011.
Tương tự, tại xưởng
sản xuất guốc mộc xuất khẩu Hùng Thái rộng trên 2.000m2 thuộc làng nghề sản
xuất guốc mộc Bình Nhâm (Bình Dương) chỉ có khoảng 50 lao động làm việc. Trái ngược
với thời điểm cuối năm 2010, khi đó có đến 200 lao động làm việc hết công suất
giao hàng cho đối tác châu Âu, Nhật...
“Thời điểm này chúng
tôi đã có đủ đơn hàng đến hết năm, thậm chí đến quý 1 năm sau nhưng giờ vẫn
chưa nhận được hồi đáp chắc chắn từ phía đối tác. Hàng loạt mẫu guốc được gửi
đi cho trên 30 đối tác theo yêu cầu song lượng hồi đáp chỉ khoảng 10 đơn vị” -
ông Thái Văn Anh Hùng, giám đốc Công ty guốc mộc Hùng Thái, lo lắng.
Làm huề vốn là mừng!
Ông Đặng Quốc Hùng,
phó chủ tịch Hội Mỹ nghệ và chế biến gỗ TP.HCM, thừa nhận một nghịch lý của
ngành hiện nay là lượng khách tìm kiếm hợp đồng khá nhiều song hợp đồng ký được
rất ít. Theo ông Hùng, nguyên nhân lớn nhất vẫn là việc chi phí đầu vào tăng
quá cao (khoảng 20-30%), trong khi khách hàng chỉ trả giá tăng 5-10%.
Các doanh nghiệp, HTX
thủ công mỹ nghệ cho biết thời điểm này các đơn vị chỉ dám ký những hợp đồng
nhỏ, ngắn hạn để đảm bảo đủ vốn sản xuất và tránh rủi ro. Tuy nhiên, dù tính
toán kỹ càng, mục tiêu huề vốn không đạt được, thậm chí còn lỗ.
Ông Nguyễn Văn Nguyên
cho biết thêm mặc dù các đối tác từ Úc, Mỹ, châu Âu đặt hàng khá nhiều nhưng
HTX không dám ký vì giá nguyên liệu biến động từng ngày. Từ đầu năm đến nay,
chúng tôi chỉ ký những đơn hàng nhỏ (sản xuất, giao hàng trong vòng một tháng)
nhưng phần lớn chỉ huề vốn. Ông Nguyên tính toán giá mành trúc xuất khẩu tăng
được 40.000 đồng/ chiếc thì giá mành trúc thô tăng lên 35.000 đồng/chiếc. Trong
khi đó chưa kể đến những chi phí khác như giá sơn, điện, nhân công, thuê nhà
xưởng... đều tăng.
Theo khảo sát, hiện
các loại nguyên liệu như mây tre, cói, lục bình... đều tăng khoảng 30%. Đầu năm
giá mây chỉ khoảng 40.000 đồng/kg, lục bình 7.500 đồng/kg nhưng hiện nay đã
tăng tương ứng lên 60.000 đồng/kg và 10.500 đồng/kg. Giá nguyên liệu biến động
không theo quy luật nào khiến các đơn vị sản xuất hoàn toàn bị động.
Kim ngạch xuất khẩu
đạt 500 triệu USD
Ước tính trong sáu
tháng đầu năm giá trị xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ đạt khoảng 500 triệu USD.
Trong đó mặt hàng mây tre, cói, thảm đạt 96 triệu USD, giảm 3% so với cùng kỳ
2010.
Theo ông Lưu Duy Dần - phó chủ tịch kiêm
tổng thư ký Hiệp hội Làng nghề VN, hiện có trên 80% doanh nghiệp tại làng nghề
không tiếp cận được vốn. Thêm vào đó, ngành thủ công mỹ nghệ vẫn thường chủ
quan với nguyên liệu sản xuất đầu vào sẵn có trong khi nguồn này đang dần khan
hiếm, bất ổn định. Ngành hầu như chỉ khai thác những nguyên liệu sẵn có mà
không quan tâm đến việc đầu tư vùng nguyên liệu.
Theo Tuổi trẻ