Nghệ nhân Nguyễn Hồng Phấn
Hiếm hoi người làm nghề thủ công
Ở Đa Sỹ, rất ít nhà có khuôn viên thật
ngăn nắp, vì xưởng sản xuất đặt ngay trong khu vực sinh hoạt, chỉ cách
phòng ở chừng vài mét, ngồi trong nhà nói chuyện phải nói thật to, mà
từng viên gạch dưới chân cứ rung lên theo nhịp đập của búa máy.
Tờ mờ sáng những xưởng rèn đã bắt đầu
hoạt động, đèn điện sáng choang. Người lạ đến làng đôi khi giật mình vì
âm thanh từ những xưởng rèn, nhưng người dân Đa Sĩ đã quen tiếng búa
đập sắt từ lâu. Với họ đó chính là một phần của cuộc sống.
Một trong những "cao thủ” trong làng
rèn Đa Sĩ có thể kể ra đó là ông Nguyễn Hồng Phấn. Gia đình ông Phấn có
nhà ngay mặt đường chính của làng, làm nghề rèn đã 4 đời nay. Sản phẩm
chính của gia đình ông là các loại dao thái, chặt. Cầm trên tay con dao
sắc lẹm ông chặt vào thanh sắt toé lửa mà lưỡi dao vẫn y nguyên không
sứt mẻ gì. Ông bảo, dao này mà chặt xương bò, xương lợn thì ngọt như
chặt chuối…Ở làng rèn Đa Sỹ, mỗi gia đình đều có ký hiệu riêng để khẳng
định thương hiệu sản phẩm của mình. Ông Phấn đóng dấu lên dao kéo chữ
Khởi- đó là tên người con trai đầu của ông.
Trong làng có rất nhiều nghệ nhân, mỗi
người giỏi một thứ. Nghệ nhân Bính Nga giỏi rèn rừu, búa, còn nghệ nhân
Hoàng Văn Trụ thì chuyên về bào…
Lang thang trong thế giới âm thanh,
dọc theo con đường làng nhỏ hẹp, chúng tôi ghé thăm nhà ông Nguyễn Văn
Sử ở giữa làng. Ông Sử gần như là người duy nhất trong làng không hiện
đại hoá sản xuất dao kéo bằng máy móc mà vẫn kiên trì quai búa bằng tay.
Vợ và các con ông cùng tham gia vào công đoạn sản xuất. Ông Sử cho
biết: "Dao kéo mà chuốt bằng máy thì không thể sắc bằng đập búa bằng
tay”. Theo lời ông, suốt mấy đời làm rèn thủ công gia đình ông đã quen
với tiếng đập búa rồi. Bản thân ông cũng thế, mỗi một nhát đập búa xuống
miếng phôi thép đỏ lừ nóng rực để rèn ra con dao cái kéo còn có tình
cảm của người làm nghề trong đó nữa, sản phẩm làm ra như thể có hồn.
Nhiều người khuyên ông mua máy cho nhàn nhưng ông muốn giữ nghề truyền
thống này bằng chính những sản phẩm chất lượng chứ không chạy theo số
lượng.
Gia đình ông Sử làm nghề rèn dao kéo
đã 5 đời nay. Bố ông từng là thợ bậc cao, chuyên làm mẫu sản phẩm cho
các gia đình học tập, hoặc chế sản phẩm theo bản vẽ của khách hàng.
Những người làm mẫu dao kéo ở làng Đa Sỹ rất giỏi, khách hàng chỉ cần
nói qua ý tưởng là họ có thể làm ra sản phẩm dao kéo giống y hệt.
Một ngày làm việc của gia đình ông Sử
bắt đầu từ 6 giờ sáng. Bếp than được đốt lên, chiếc quạt điện mi ni thổi
thay cho cái bễ, phôi thép được nung hồng lên rồi đặt lên đe, vợ ông
nâng búa tạ đập dẹt thành hình con dao. Ba lần nung đập như vậy thì cơ
bản rèn xong bản thô một con dao.
Làm nghề vất vả thế này thu nhập có
khá không, tôi hỏi. Ông Sử bảo làm thủ công thế này năng suất thấp,
trung bình mỗi ngày cũng kiếm được trên trăm ngàn. Hôm làm nhiều thì vài
trăm…
Tìm hiểu được biết, ngoài một số gia
đình nghệ nhân sản xuất những sản phẩm chất lượng cao, phần lớn các hộ
còn lại trong làng vẫn chỉ làm sản phẩm bình dân, mẫu mã, hình thức chưa
hấp dẫn, khó cạnh tranh. Thậm chí giờ đây danh tiếng của làng cũng đã
mai một, bởi nhiều hộ chạy theo lợi nhuận, sản xuất hàng kém chất lượng.
Chính vì vậy, dao kéo Đa Sỹ vẫn chưa thâm nhập được vào phân khúc thị
trường hàng gia dụng cao cấp, ít bày bán trong hệ thống các cửa hàng lớn
hay những trung tâm thương mại.
Từ tờ mờ sáng, xưởng rèn đã đỏ lửa
Vui buồn làng nghề lên phố
Vài năm trở lại đây, dao kéo Trung
Quốc, Thái Lan đã tràn ngập thị trường Việt Nam, thậm chí ngay trong khu
vực của làng cũng có bán dao kéo Trung Quốc. Dao kéo nhập ngoại, nhất
là từ Trung Quốc mẫu mã đẹp, giá cả phải chăng nên vẫn có sức hấp dẫn
người tiêu dùng hơn, đặc biệt là nơi phố thị. Để tiếp tục duy trì làng
nghề, người Đa Sĩ đã phải đưa sản phẩm đi bán rất xa.
Hiện nay trong làng còn 900 gia đình
làm nghề, chiếm khoảng 40% số hộ trong làng. Tính sơ sơ cũng đã có mấy
trăm gia đình bỏ nghề rồi. Làm dao kéo là một nghề vất vả, ai không có
sức khoẻ thì không thể theo được. Nhiều gia đình đã tìm nghề khác làm kế
sinh nhai, như buôn bán, mở cửa hàng ăn uống.
Ấy là chưa kể, hiện có tới trên 90% số
gia đình trong làng Đa Sĩ bị thu hồi hết đất nông nghiệp phục vụ dự án
xây dựng đô thị, mở rộng đường giao thông. Mất đất nông nghiệp khiến
nhiều gia đình phải xoay sở tìm kế sinh nhai. Giờ đây mức sống của người
dân trong làng đã có sự chênh lệch rõ rệt, người giầu kẻ nghèo cũng
được phân định rõ ràng.
Trong công cuộc hiện đại hóa nông
thôn, giờ đây mỗi xóm trong làng là một tổ dân phố. Có lẽ cái từ làng
rồi cũng dần mất đi. Người dân thì vẫn chưa đủ thời gian để cảm nhận
mình là người thành phố, vẫn xởi lởi, chân chất, mến khách đúng như cái
cốt cách của người nhà quê. Những con ngõ hẹp rất khó đi khiến không khí
trong làng đặc quánh lại. Đa Sĩ đang đổi thay nhanh, trong đó sôi động
nhất là cơ cấu nghề nghiệp. Điều này đặt ra những thách thức với sự tồn
vong của một làng nghề thủ công truyền thống từ bao đời nay.
Nhiều người dân trong làng buồn vui
lẫn lộn khi làng rèn được lên phố. Âu mọi chuyện diễn ra cũng là theo
quy luật trong sự vận động của cuộc sống. Nhưng còn đó là nỗi băn khoăn,
mai này làng rèn Đa Sỹ.
Theo: Đại đoàn kết - Lê Tự
|