Ký ức phố
Phố Hàng Khay chỉ dài chừng hơn 150m, là phố duy nhất chỉ có dãy số
nhà lẻ, đối diện với Hồ Hoàn Kiếm. Xưa còn có dãy hàng hoa tươi bán ở
đầu phố bên hồ. Sau này người ta còn xây dãy quán cho những người ở
phường hoa Ngọc Hà đến bán từ lúc trời đất còn sương bay bảng lảng.
Riêng mặt phố bán hàng khảm trai thì lúc nào cũng tấp nập người ra, kẻ
vào. Bố tôi còn nói, cách đây chừng trăm năm, những người thợ khảm đã
xây một ngôi đền thờ ông Kim, người của làng Ngọ đã khai mở ra phố Hàng
Khay. Nhưng rồi người Pháp đã cho phá đi để xây nên phố Tràng Tiền ngày
nay.
Giờ đây, cũng giống như sự rạn vỡ của cái hình hài 36 phố phường,
làng nghề Hà Nội xưa, phố Hàng Khay bị những ngành nghề khác chen lấn,
nên phường khảm tan tác, rải rác ra nhiều phố ở khắp các quận huyện.
Nhưng người làng Ngọ vẫn tồn tại cho dù ít ỏi ở phố Hàng Khay. Hàng của
họ ngày càng tinh tế, phong phú và tạo nên một thương hiệu nức tiếng,
ngay cả với những khách hàng nước ngoài. Đi đâu mọi người đều truyền
tụng hàng khảm trai ốc làng Ngọ, giờ còn là cái tên đầy đủ - Chuôn Ngọ,
xã Chuyên Mỹ, Hà Nội thật tinh xảo và rực rỡ sắc màu. Một nhà nghiên cứu
văn hóa người Pháp viết sách về các làng nghề ở Việt Nam, in năm 1909,
đã từng so sánh hàng khảm trai ốc của người làng Ngọ còn đẹp hơn nhiều
so với hàng khảm của người Quảng Đông, Trung Quốc.
Nhìn tranh khảm của người làng Chuôn Ngọ như có lửa cháy sáng, toát
lên ánh xạ của bảy sắc cầu vồng. Lại chuyện bố tôi kể, ở Hải Phòng còn
có người mua bộ sập gụ, tủ chè và tràng kỷ cổ, được khảm bức Bách điểu
chầu Hoàng và Tam đại đồng đường, cùng với nhiều hoa lá chim muông,
trăng sao và mây bay, tạo nên sự hòa sắc rất huyền ảo. Khi có ánh sáng
phản chiếu, sắc màu sao lại tươi thắm đến thế, có những đốm đỏ cháy lên
như lửa vậy, và nghe như có tiếng chim muông ríu rít, cỏ cây hoa lá rào
rạt trong gió reo. Rồi có đêm tối, khi ánh sáng không còn một chút le
lói, thì bất ngờ có những tia chớp xanh trong lóe lên từ bức tranh khảm
con công xòe cánh. Ai đó đặt cho nó một cái tên, cái ánh sáng ấy là ngọn
lửa màu ngọc. Nó cháy trong đêm tối, làm quầng lên một vầng sáng màu
xanh trong, dịu mát lung linh huyền ảo như trăng rằm vậy.
Hiện tôi vẫn dùng cái khay trà của ông cụ để lại. Mỗi lần tiếp khách,
tôi lại bồi hồi nhớ lại mọi chuyện và kể lại với bạn trà về cái tích
khảm hình 5 cậu bé hiếu học. Nhưng bất ngờ có lần, hay tin có người ở
làng Chuôn Ngọ, mới đây đã khảm một chữ “Tâm”, với vỏ ốc biển, ánh lên
một ánh sáng màu xanh ngọc, tựa như ngọn lửa biêng biếc xanh, tạo một
sắc độ kỳ ảo trong đêm tối. Tôi không thể không ngạc nhiên, vì tôi cứ
tưởng những điều bố tôi kể chỉ là huyền thoại. Thế là tôi tìm đường về
làng Chuôn Ngọ để tìm lại những ký ức của ngọn lửa trong sự tưởng tượng
của tuổi thơ ngày nào.
Tích cổ từ một bông sen
Trước con đường dẫn về làng Chuôn Ngọ, xã Chuyên Mỹ có những đầm
sen. Tôi ngoái nhìn những cánh hoa sen hồng đang xòe nở hứng những giọt
nắng long lanh rơi nhẹ xuống mặt hồ nước, rồi thầm lặng tỏa hương. Sự
chú ý của tôi về cánh đồng sen, tưởng như sự tình cờ, nhưng khi vào đền
thờ tổ nghề của làng, tôi đã được ông Nguyễn Đình Khải, người coi đền kể
chuyện có liên quan tới hoa sen của miệt đất vùng chiêm trũng này. Đó
chính là sự ra đời của ông tổ nghề từ một bông sen.
Câu chuyện về cậu bé Trương Công Thành, được cha mẹ cầu tự mà
nên... Số là, sau ngày đi lễ về, mẹ cậu trong lòng thấy thư thái và tràn
ngập niềm vui. Trong nhà rộn rã tiếng cười và ai nấy đều sung sướng vì
một mùa lúa no đủ, thóc chất đầy nhà. Và đêm ấy, trong giấc mơ thần
tiên, một con rồng trắng hiện về đậu trên nóc nhà, rồi biến thành một
bông sen thơm ngát. Mẹ cậu nâng niu bông sen có màu hồng thắm như một
báu vật trời ban. Sau đó bà có mang rồi sinh ra cậu, với nước da trắng
hồng và tỏa hương thơm...
Chữ Tâm màu ngọc của nghệ nhân Tuấn Thanh. |
Quả
nhiên, cậu bé Trương Công Thành tỏ ra xuất sắc hơn người, học giỏi,
thông minh và rất khéo tay. Mới mười bảy tuổi, Trương Công Thành đã thi
đỗ Thái học sinh, rồi được bổ làm Tướng công Phù Quảng Bá. Chẳng những
thế, Trương Công Thành còn được Thừa tướng Lý Đạo Thành yêu quý và gả
con gái cho. Khi quân Tống sang xâm lược nước ta, vua nhà Lý lúc đó đã
phong cho Trương Công Thành giữ chức Tây đạo Tướng quân, Tham tán phó
Nguyên soái, cùng Nguyên soái Lý Thường Kiệt mang quân lên tận phương
Bắc chinh phạt quân Tống và thắng lợi trở về.
Sau đó, Trương Công Thành còn thân chinh đi dẹp loạn quân Chiêm
quấy nhiễu bờ cõi nước ta. Với nhiều công trạng, ông được vua ban bổng
lộc, khen thưởng và thăng chức, nhưng ông đều từ chối và chỉ xin nhà vua
cho trở về quê, để đi tu và ngao du mọi phương trời, những nơi bồng lai
tiên cảnh. Mọi người đều ngỡ ngàng, nhưng ông đã được toại nguyện và
được vua phong cho 4 chữ “Công cái hoàn vũ”, với ý nghĩa được ghi danh
có công gìn giữ bờ cõi.
Trở về với đầm sen và con sông quê hương bao đời nay. Rồi tình cờ
lại một câu chuyện như trong giấc mơ hiện về, ông nhặt được một vỏ ốc đã
bị gió mưa và thời gian bào mòn bên dòng suối trôi ra biển lớn. Vỏ ốc
ấy như một bông sen ngũ sắc. Dưới ánh sáng trong veo của thiên nhiên,
cái vỏ ốc mỏng mảnh toát ra những ánh sáng màu kỳ lạ. Ông nhặt về và cắt
ra từng miếng ghép vào những chữ trên hoành phi, câu đối để tạo nên màu
sắc và ánh sáng cho con chữ.
Sau khi mài kỹ, những con chữ ấy đã trở thành một bức tranh màu
hoàn chỉnh, toát lên một thứ ánh sáng như ảo mộng và gây cho ông một cảm
xúc bất ngờ. Và thế là từ một trò chơi cho con chữ, ông đem về truyền
lại cách thức dựng tranh gắn vỏ trai ốc cho mọi người. Sau này trở thành
một nghề mới, khảm trai tranh gỗ, trở nên phát đạt cho dân làng. Theo
như những di sản mà ông từ đang coi giữ hiện nay, cùng với ngôi đền thờ
ông tổ sư Trương Công Thành đã đánh dấu cái mốc nghề khảm trai được hình
thành tại làng Chuôn Ngọ, cách đây đúng 1.000 năm.
Lung linh bảy sắc cầu vồng
Tôi tò mò hỏi về ngọn lửa màu ngọc trong bức tranh khảm phát sáng
trong đêm tối, ông Khải mỉm cười, sau dẫn tôi về nhà. Ông chỉ cho tôi
xem những công việc mà con cháu ông đang hối hả làm, rồi nói với tôi cứ
tự xem khắc biết. Thật khó ngờ, công việc của những người thợ khảm lại
tỉ mỉ và phân chia từng phân việc kỹ lưỡng như những người chế tác vàng
vậy. Ở đây, họ không dùng lửa để làm ra những mặt hàng như nhẫn, vòng,
dây như thợ kim hoàn, mà lại dùng bàn tay khéo léo để thắp lên những
ngọn lửa từ những con trai, con ốc của đồng quê, biển cả.
Làm nghề khảm trai trước hết là công việc của một họa sĩ tạo hình
trên mảnh vỏ trai, ốc được chọn lựa và phát hiện chính xác bảng màu
thích hợp với ý đồ thể hiện; thứ đến là tài khắc chìm hình trên gỗ, rồi
mới đến công đoạn khảm, tức là gắn kết hình đã được cưa cắt vào hình
khắc trên gỗ. Nhưng có lẽ cái khâu khoe hình và khoe sắc, tạo nên tác
phẩm là cả một câu chuyện của sự khổ luyện, mà không phải ai cũng làm
được. Để thắp lên ngọn lửa kỳ thú của thiên nhiên, muôn màu tỏa sắc,
người thợ phải trải qua nhiều ngày đêm mài, xoa, đánh bóng rất kỳ công
với nhiều chất liệu khác nhau.
Trước hết, họ phải dùng giấy nháp có hạt to để đánh cho phẳng giữa gỗ
và những hình trai ốc được gắn vào bằng sơn ta. Sau đó mới dùng giấy
nháp hạt nhỏ, xoa cho mịn hình, làm hiện lên những sắc màu ưng ý nhất.
Tiếp theo dùng vôi bột đánh cho sáng bức tranh, thêm nữa còn đánh thêm
bằng lá ngái để tìm ra độ tương phản thật hài hòa giữa tối và sáng. Chưa
hết, cuối cùng là khâu xoa bột gạo lên để làm sạch và mịn tranh một
cách tuyệt đối. Xem ra, người ta ví việc khảm tranh còn khó hơn luyện
vàng quả không ngoa.
Trên thực tế, nếu so sánh về giá cả chất liệu, thì những loại vỏ ốc
quý hiếm như ốc đỏ, hay vỏ trai Cu Khổng cũng đắt không kém vàng. Thí
dụ, một con ốc đỏ, được nhập khẩu, phải xẻ ra để ép phẳng; phần đẹp nhất
chỉ lựa được vài thanh dài 20cm, rộng chừng 2cm, thì giá đã tới 50
triệu đồng một lạng.
Vậy nên từ xa xưa, việc chơi tranh khảm trai ốc, hoặc sưu tầm những
bộ sập gụ, tủ chè, tràng kỷ có khảm trai chỉ thuộc về tầng lớp giàu có,
chứ không hề được phổ biến như hiện nay. Nhưng giờ đây, vẫn có những
thương nhân người Hoa tìm đến làng buôn những bức khảm đẹp, đem về bán
lại cho những nhà quyền quý trong nước. Những người này rất thích tranh
khảm làng Chuôn và coi chúng như vật báu trong nhà. Họ cảm nhận những
sắc màu rực rỡ hiện lên như một phép màu đầy huyền bí và ẩn chứa một kho
báu trong suốt chặng đường làm ăn đầy rủi ro, bất trắc. Chúng thắp lên
những ngọn lửa ấm áp và tràn đầy hy vọng.
Tác giả (bên phải) và nghệ nhân của làng khảm trai Chuôn Ngọ.
|
Lần
mò mãi, tôi mới tìm được nhà nghệ nhân Tuấn Thanh, người mà tôi hay tin đã khảm
chữ “Tâm” bằng một loại vỏ ốc biển có sắc xanh sáng dịu một màu huyền ngọc. Đây
là một sự phát hiện tình cờ, khi người nghệ nhân này muốn thoát khỏi thói quen
trong nghề, khi ghép các tích mẫu cổ có sẵn để khảm vào các chữ. Nhiều chữ được
ghép bằng câu chuyện bốn mùa cùng với chim hoa lá cành, hay long ly quy phượng,
hoặc trích ở các bộ tranh tứ bình, để tạo nên sự hòa sắc đa dạng, rực rỡ nhất
như bảy sắc cầu vồng.
Nhưng
chữ của nghệ nhân Tuấn Thanh lại hiện lên với ánh sáng độc đáo, đạt đến độ sâu
thẳm của cõi tâm; đó là ngọn lửa màu ngọc an bình, làm cho người ta có cảm giác
cuộc sống chậm lại với nhịp điệu hài hòa. Ở đâu đó, con người hối hả với ngọn
lửa cháy đỏ, cuồn cuộn như gió cuốn thì ở đây với ông là con mắt trầm lắng, suy
tư và chia sẻ với cộng đồng.
Tôi
lặng đi trước con chữ óng biếc mà thiên nhiên hiện lên qua bàn tay của người
nghệ sĩ. Hiện lên trước mắt tôi là một ngọn lửa kỳ diệu, một màu ngọc của tâm
hồn tràn đầy tình yêu thương và chúng đang cất lên những lời ca của ngàn đời
vang vọng mãi, ngay cả khi màn đêm buông xuống. Tôi chợt thấy hương thơm từ đầm
sen tỏa lan, rồi những tàu lá sen hiện lên những bức khảm đang rung rinh trước
làn gió nhẹ. Bên chúng là những đốm lửa màu ngọc đang cháy lên dịu dàng.
Bài, ảnh:Vương Tâm