Phía sau mành trúc là những nghệ nhân lặng lẽ, cái lặng lẽ của người
biết giấu mình để đem đến những xao động đẹp trong đời cho cõi nhân gian
Trong kho tàng ký ức trẻ thơ của tôi, bao giờ cũng có hình ảnh những
người con gái đẹp mặc áo dài ngồi đan áo bên cửa sổ phía trong bức mành
tha thướt.
Chắn gió lạnh ngày đông
Không hiểu hình ảnh đó vì sao lại đến trong tôi và ở lại dầm dề lâu
thế. Phải chăng vì ngày xửa ngày xưa có người con gái hàng xóm rất đẹp
hay ngồi đan áo cho người yêu bên cửa hay vì những câu thơ, bài hát mà
lúc còn tuổi thơ, những người lớn đang yêu thường ngâm nga, ca hát và
tôi đã trộm nghe? Ví như những câu thơ rất đẹp của nhà thơ đồng quê
Nguyễn Bính: “Cửa xưa mành trúc còn ngân/ Góc tường vẫn đọng trăng xuân
thuở nào/ Làng xa, bản nhỏ, đèo cao/ Gió bay tà áo chiêm bao giữa
chừng”. Hay một đoạn tango thiết tha trong bài hát “Bóng ai qua thềm”
của nhạc sĩ cũng đồng quê chân tình - Văn Chung: “Bóng ai qua thềm, vừa
nhìn thoáng lướt trên nền trời đêm. Ngừng đan em thấy gió lay mành trúc,
bóng qua êm đềm. Mùa đông sắp đến gió lay mành trúc, bóng ai qua thềm”.
Và cũng có thể là những câu thơ tình ứa lệ trong “Một mùa đông” của Lưu
Trọng Lư dành cho nhà điêu khắc lừng danh Điềm Phùng Thị: “Em ngồi
trong song cửa/ Anh đứng dựa tường hoa/ Nhìn nhau mà lệ ứa/ Một ngày một
cách xa…”.
Sản xuất mành tre ở huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh Ảnh: Từ Liêm
Có lẽ tất cả hình ảnh ấy, ngôn ngữ thơ ấy, giai điệu ấy, đã làm nên một ký ức đa mang như thế trong tôi.
Lớn lên chút nữa, tôi nhận ra gần như mình đang sống giữa một thế
giới mành trúc. Có lẽ do quan niệm về phong thủy in đậm dấu ấn trong đời
sống của người dân TP Huế (tỉnh Thừa Thiên - Huế) nên những ngôi nhà
xưa ở đây thường có treo mành trúc. Công năng của nó là để chắn gió, che
nắng và cũng là vật dụng trang trí trong nhà. Huế là vùng đất kinh kỳ
nên gần như nhà nào cũng có tấm mành để tăng vẻ kín đáo của con gái nhà
khuê các. Huế cũng là vùng đất giàu tâm linh nên người ta sử dụng nhiều
tấm mành để tăng vẻ uy nghi của bàn thờ, đền thờ, cung điện. So với tấm
bình phong nặng nề, tấm mành vừa nhẹ vừa có vẻ tha thướt hợp với tâm hồn
Huế hơn nên người Huế chuộng treo mành hơn so với đặt tấm bình phong
trong nhà.
Mành trúc Huế thường được làm từ những cọng lồ ô vót tròn lớn bằng
chiếc đũa, kết với nhau bằng những sợi dây gai rồi được phết lên trên
một lớp dầu rái cho khỏi bị mốc. Theo họa sĩ Tôn Thất Sa và Hoàng Yến
trong một bài viết vào năm 1919: Mành trúc Huế còn có thể được sơn màu
hoặc vẽ chữ Phúc, chữ Thọ với nhiều màu sắc. Do đó, có nhiều loại mành
trúc được trang trí khác nhau: mành trúc trắng không sơn bóng, sơn bóng
không trang trí, mành trúc trơn chỉ trang trí ở khung và ở góc, mành
trúc trang trí ở phần giữa...
Nghe nói ngày xưa thợ làm mành trúc ở Huế thường tập trung ở dưới cầu
Đông Ba. Xưa nữa thì như “Từ điển tiếng Huế” của bác sĩ Bùi Minh Đức
cho biết: Thợ làm mành hồi xưa thuộc bộ Công, cha truyền con nối, nhưng
đến năm 1891, niên hiệu Thành Thái thì chỉ có trường chuyên nghiệp dạy
nghề mà thôi...
Tôi nhớ những năm 1970 ở vùng quê ven Huế, thường bà con nông dân lúc
nông nhàn cũng đan mành che nắng gió cho ngôi nhà. Tre thường dùng cho
việc đan mành chốn đồng quê là tre thường, không phải là lồ ô, mắt dày
nhưng bền, mộc mạc mà chân chất một thứ tình quê vĩnh hằng. Và tấm mành
cũng không cần phải trang trí chi nhiều, chỉ sơn hắc ín hay nhà nào khá
hơn thì phết lớp dầu rái trong. Ấy vậy mà những tấm mành lại vô cùng đắc
dụng cho việc chắn gió lạnh những ngày đông tháng giá, gió bấc mưa
phùn...
Thuở đó, nhà nào ở quê kha khá, đủ tiền lên phố Hàng Bè, khu vực ngay
trước cửa Đông Ba mua một tấm mành đan bằng lồ ô, có vẽ chữ Phúc, chữ
Thọ hay con công, con phượng... đã là ghê gớm lắm.
Sau này ra Bắc, mới hay cái phố hàng mành ở Huế, tức là một đoạn của
phố Hàng Bè, không thấm tháp chi so với phố Hàng Mành ở Thăng Long xưa.
Hà Nội có 36 phố, phường thì có một phố Hàng Mành chuyên bán mành tre.
Những sản phẩm này đến từ một địa danh như cái tên cổ tích là làng Rừng
Mành. Thực ra, đây chỉ là tên tục của một ngôi làng có tên Giới Tế,
thuộc quê hương quan họ Bắc Ninh. Nghe đồn rằng từ thuở khai hoang lập
địa, nơi đây là cả một rừng tre trúc. Qua bao cuộc bể dâu, làng Giới Tế
trở thành “cái rốn đựng tôm cá” của cả vùng chiêm trũng. Cứ khoảng
“tháng bảy nước chảy lên bờ”, mưa nguồn đổ nước về ngập trắng xóa cả
vùng thì người dân bắt đầu đan những chiếc đó, chiếc đăng để đổ xô ra
đồng bắt cá tôm. Về sau, dân làng biết ken những thanh tre dày hơn, sát
hơn để che chắn ruồi muỗi, hình thành nên những chiếc mành treo đầu
tiên.
Hiện tại, mành treo của làng Rừng Mành có hàng chục loại, bày bán
khắp nơi, thống lĩnh Hàng Mành Hà Nội: mành treo cửa, mành che bàn thờ
tổ tiên, mành che chạn bát, mành thay chiếu làm chỗ ngả lưng...
Bây giờ, vùng văn hóa Bắc Ninh còn nổi tiếng làng nghề mành tre Tân
Xuân Lai ở Gia Bình. Truyền rằng nghề đan mành tre của làng do cụ tổ Đỗ
Đình Kiên truyền dạy cho dân làng từ khoảng đầu thế kỷ XVII. Chỉ riêng
mành tre của làng đã có tới 10 dòng sản phẩm như mành sấp ngửa, mành một
mặt, mành hai mặt, mành nan to, nan nhỏ, nan vuông, nan tròn... Ngoài
mành tre thông dụng dùng để treo cửa ra vào, còn có mành che chạn bát;
mành nan to để trải giường... Cao cấp nhất là mành nan nhỏ có sơn vẽ họa
tiết theo tích cổ buông rủ nơi cửa đình, cửa chùa và bàn thờ gia tiên.
Trước đây, làng có gần 1.000 hộ dân đều làm nghề mành. Mỗi nhà có vài
ba khung dệt. Thanh niên trong làng lên tận các vùng rừng núi Lào Cai,
Yên Bái... chọn tre làm mành, lại rong ruổi mang mành đi tiêu thụ khắp
nơi. Người già, phụ nữ và trẻ em ở nhà vừa chẻ nan đan mành vừa lo ruộng
vườn nhà cửa và chăm lo việc học hành. Thu nhập từ nghề đan mành tre
không cao nhưng đủ để trang trải cuộc sống, xây nếp nhà, làm chái bếp,
dựng vợ, gả chồng cho con cái và chăm lo việc làng, xã. Đến khi thị
trường xuất hiện nhiều sản phẩm mành rèm làm từ nhựa và vải bố, sản phẩm
mành tre của làng sa sút.
Rất may là gần đây, mành tre che nắng trở nên hiệu quả hơn so với rèm
nhựa nên nhu cầu thị trường tăng lên, mành che nắng của làng lại chiếm
được ưu thế trên thị trường và thu hút khách hàng trong nước đặt mua.
Thân thiện và gần gũi
Vậy đó, bây giờ mành trúc đã không chỉ che nắng che mưa mà còn làm
đẹp. Cái thô mộc của mành tre trúc trong một ngôi nhà hiện đại làm cho
sự thân thiện và gần gũi bỗng hiện diện quanh đây. Màu vàng úa của chiếc
mành có thể làm nền cho những bộ sa lông màu sẫm nào đó. Một mành tre
thả lưng lửng giữa căn phòng khiến cho không gian có cao độ lớn bỗng
thấp lại và trở nên ấm áp... Mành tre trúc cũng từ bao giờ là nơi được
gắn tranh dân gian lên để làm tờ lịch. Hay có khi, là một bức thư pháp
thơ, như thơ Bùi Giáng từng xuất hiện trước công chúng với chủ đề “Mưa
nguồn hòa âm” do hai nhà thư pháp Bùi Hiến và Triều Nguyên thể hiện trên
30 bức thư họa...
Và một đêm nào đó trong Festival Huế, trên hồ Tịnh Tâm, những con rối
nước đến từ đồng bằng Bắc Bộ vén mành tre bước ra bắt đầu kể câu chuyện
cổ tích ngày xửa ngày xưa. Phía sau mành trúc là những nghệ nhân lặng
lẽ, cái lặng lẽ của người biết giấu mình để đem đến những xao động đẹp
trong đời cho cõi nhân gian...
Ngày còn nhỏ, thỉnh thoảng tôi về làng giỗ chạp cũng đi qua Hàng Bè
của TP Huế, thấy trải dài dưới sông những bè lồ ô nối nhau chạy dài như
chiếc thuyền chiến trận trong truyện “Tam quốc chí”, cứ ao ước đem về
nhà một chiến thuyền ấy. Đâu biết rằng từ “chiến thuyền” ấy sẽ là mành
tre, nón lá, cơm áo cho bao nhiêu người thợ cần lao...
Nhiều làng nghề mành tre trúc trứ danh
Miền Nam có nhiều làng nghề mành tre trúc trứ danh. Những năm 1980,
HTX Mành trúc Tam Hiệp (huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam) lừng lẫy nhất
miền Trung. Cũng từ những thập kỷ trước, Tân Thông Hội (huyện Củ Chi, TP
HCM) được biết đến là nơi sản xuất mành trúc hàng đầu cả nước. Giờ đây,
cái tên ấy trở nên quen thuộc với bạn bè quốc tế khi mành trúc Tân
Thông Hội xuất ngoại, tham gia thị trường các nước như Nhật Bản, Pháp,
Đan Mạch, Mỹ... với các sản phẩm rất đa dạng và phong phú về chủng loại
như các loại rổ, rá, nia, sàng, thúng, giỏ, mủng...
Mành trúc Việt của Hợp tác xã Bình Minh (TP HCM) đã được xuất khẩu qua thị trường Mỹ, Nhật Ảnh: Chí Lộc
Theo: nld.com.vn