Anh Nguyễn Văn Thành (bên trái), ấp Cầu Bông, xã Nhị
Thành, huyện Thủ Thừa (Long An) quyết tâm giữ nghề rèn dù còn nhiều khó
khăn.
Người dân ở ấp Cầu Bông, xã Nhị Thành, huyện Thủ Thừa (Long An)
vẫn thường nói vui, trẻ con nơi đây đã “thuộc lòng” những tiếng búa đập
cắc cụp, chan chát ngay khi còn trong bụng mẹ. Cùng âm thanh thô mộc ấy,
theo thời gian, những đứa trẻ xóm lò rèn lần lượt lớn lên, tiếp tục gìn
giữ cho ngọn lửa nghề cháy mãi, dù trải qua không ít thăng trầm.
NỨC TIẾNG MỘT THỜI
Vừa đến con đường rẽ vào ấp Cầu Bông, mọi người đã nghe tiếng búa đập
rộn ràng vang lên từ lò rèn của ông Lê Minh Nhựt. Ngày nào cũng có từ
hai đến bốn nhân công đến làm tại lò rèn của ông. Nay đã 82 tuổi, ông
Út Nhựt được xem là một trong những người có nhiều “duyên nợ” nhất với
nghề rèn ở ấp Cầu Bông này. Trong ngôi nhà mang nhiều dáng vẻ xưa, ông
bắt đầu câu chuyện về nghề. Ông Nhựt kể, ngay từ nhỏ, ông đã thấy cha
mình làm nghề rèn và khi mới 12 tuổi, ông đã được cha truyền nghề. Gia
đình ông làm đủ loại sản phẩm, từ con dao, cái cuốc đến vá, xẻng… “Mới
đầu thì mình làm những món nhỏ, ít phức tạp hơn như con dao chẳng hạn.
Vừa làm vừa học nghề của ông già. Từ từ, tôi được ông già hướng dẫn làm
những mặt hàng khó hơn, đòi hỏi nhiều sức hơn” - ông Út Nhựt tâm sự.
Theo ông Nhựt, nghề rèn xuất hiện ở Nhị Thành cách đây hơn 100 năm.
Trong quá trình đi mở đất, người dân cần có những vật dụng để khai
hoang, sản xuất nông nghiệp và sinh hoạt hằng ngày, do vậy mọi người
phải tự chế ra phảng, dao, cuốc... Cứ thế, thời gian qua đi, sản xuất
nông nghiệp ngày càng mở rộng, những nông cụ theo đó mà vươn đến những
vùng, miền khác. Những vật dụng thô sơ phục vụ sản xuất nông nghiệp đã
mang lại thu nhập cho người dân ấp Cầu Bông, xã Nhị Thành, huyện Thủ
Thừa. Ông Nhựt nhớ lại, khoảng vài chục năm về trước, hàng làm ra không
kịp bán. Ai cũng sống khỏe với nghề. Nhà nhà trong ấp đều đỏ lửa khi gà
chưa cất tiếng gáy. Tiếng búa đập, tiếng mài giũa sắt vang lên suốt
ngày.
Chủ tịch Hội Nông dân xã Nhị Thành, huyện Thủ Thừa (Long An) Lê Văn
Kịp cho biết, thời hưng thịnh, toàn xã có hơn 100 hộ với gần 1.000 nhân
công theo nghề rèn, tập trung ở các ấp Cầu Bông, Cầu Ngang. Tuy nhiều
lò rèn, nhưng mỗi lò đều có những mặt hàng của riêng mình. Người chuyên
rèn búa, người chuyên về cuốc, người thì cả đời chỉ làm dao… Sản phẩm
phong phú, đa dạng, cho nên hàng làm ra bán rất chạy. “Thời điểm đó,
những sản phẩm của các lò rèn Nhị Thành rất được ưa chuộng ở miền tây.
Nhiều cái tên đã trở thành “thương hiệu” của nghề rèn Nhị Thành như: lò
cụ Lê Văn Bảy, ông Út Nhựt, lò Tám Dụng, lò Mười Danh, Bảy Bom…” - ông
Kịp kể. Trong những “thương hiệu” của nghề rèn Nhị Thành, cụ Lê Văn Bảy
được đánh giá là người rèn giỏi nhất. Khách hàng luôn hài lòng với mỗi
sản phẩm cụ làm ra cả về chất lượng và tính thẩm mỹ, đặc biệt là những
lưỡi cuốc. Theo ông Lê Văn Kịp (cũng là con cụ Bảy), lưỡi cuốc cụ Bảy
làm ra khi sử dụng, nó vừa nhả đất, vừa cuốc êm và rất bền. Thậm chí có
người vì quý sản phẩm do cụ Bảy làm ra, mua cây cuốc về chỉ để… treo
chơi trong nhà (!) “Người khác thì đặt ổng rèn một lúc vài ba cây cuốc.
Ông hỏi: Đặt chi nhiều vậy, bây? Ông khách kia trả lời tỉnh queo: Đặt
phòng hờ, lỡ sau này ông mất tui còn có cái để xài” - ông Kịp hóm hỉnh
giọng đầy vẻ tự hào kể lại kỷ niệm về ba mình. Đặc biệt hơn, trong
những năm tháng chiến tranh, cụ Bảy còn âm thầm làm nắp hầm bí mật cho
cách mạng. Trong gia đình không ai biết cụ làm việc này cho đến khi
miền nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất.
Ông Lê Minh Nhựt, 82 tuổi, luôn lạc quan với nghề rèn ấp Cầu Bông, xã Nhị Thành, huyện Thủ Thừa (Long An).
QUYẾT TÂM GIỮ NGHỀ
Giống như nhiều nghề truyền thống khác, nghề rèn ở xã Nhị Thành đang
bước vào giai đoạn khó khăn khi sản phẩm không còn được tiêu thụ nhiều
như xưa. Anh Nguyễn Văn Thành, người đến với nghề rèn từ khi mới 15
tuổi, than thở: “Cách đây vài năm, đoạn đường qua nhà tui lúc nào cũng
nhộn nhịp người làm nghề rèn, nhưng giờ họ bỏ nghề hết rồi. Khu này
hiện tại chỉ có mỗi lò của nhà tui”. Cơ giới hóa phát triển, những mặt
hàng từ Thái-lan, Trung Quốc tràn vào với giá rẻ hơn, kiểu dáng phong
phú khiến cho nghề rèn ở Nhị Thành rơi vào cảnh điêu đứng. Để tồn tại,
nhiều chủ lò đã chuyển qua nhận hàng từ ngoài bắc vào, rồi gia công, mài
sắc lại, sau đó đem bán ra thị trường, ít tốn công nhưng thu nhập khá.
Còn đối với những người quyết giữ thương hiệu sản phẩm rèn Nhị Thành
thì buộc phải hạ giá bán “cho bằng với người ta” mới có thể tồn tại
được. “Trước đây, một cây búa có giá gần bằng một giạ lúa (20 kg), giờ
ba cây mới mua được một giạ” - anh Thành thở dài.
Khó khăn không dừng lại đó, khi hiện tại việc tìm kiếm nhân công tại
các lò rèn cũng khiến các chủ lò “đỏ con mắt”. Anh Nguyễn Văn Thành cho
biết, trước đây anh có hai nhân công đến phụ tại lò, nhưng giờ đây cả
hai đều nghỉ việc để đi làm công nhân. Anh phải vận động công nhà từ vợ
đến con trai mới có thể cho ra lò mỗi ngày 50 lưỡi cuốc. Trường hợp
ông Út Nhựt cũng thế. Dù là lò rèn lớn, có tiếng, nhưng gia đình ông
cũng không thoát khỏi vòng xoáy khắc nghiệt của thị trường khi nghề rèn
không còn hấp dẫn với nhiều người. Hiện lò rèn của ông Nhựt vẫn duy
trì từ hai đến bốn thợ, chỉ bằng một nửa số nhân công so với trước đây.
Khó khăn là vậy, nhưng những người “sống chết với nghề rèn” ở Nhị
Thành vẫn quyết tâm giữ nghề bằng tất cả khả năng của mình. Đến nay, có
khoảng 40 lò rèn còn duy trì, hầu hết tập trung ở ấp Cầu Bông. “Dù số
lượng giảm nhiều so với trước nhưng hầu hết các lò rèn đều hoạt động
thường xuyên” – ông Lê Văn Kịp chia sẻ. Theo ông Kịp, điều đáng mừng
hơn cả là phần lớn các lò rèn đều có thế hệ kế thừa. Ông Út Nhựt hiện
có hai người con trai đang giữ trọng trách duy trì nghề rèn có truyền
thống bốn đời của gia đình. Trong đó, anh Lê Minh Hồng có tay nghề khá
cao khi biết áp dụng những gì mình đã học từ nghề cơ khí vào nghề truyền
thống của gia đình. Hay như ông Mười Danh (Bùi Công Danh), người cả
đời làm dao nổi tiếng ở ấp Cầu Bông giờ đây đã có thể thư thả dưỡng già
vì người con trai tiếp tục duy trì và phát triển cái nghề mà ông đã
dồn hết tâm sức vào nó. Mỗi ngày, anh Bùi Công Sơn (con ông Mười Danh)
vẫn đều đặn cho ra đời 50 con dao đủ loại. Vài ba ngày, anh lại chở dao
đi bỏ mối ở chợ Tân An (Long An).
Chủ tịch Hội Nông dân xã Nhị Thành Lê Văn Kịp dù không nối nghiệp cha
nhưng lại chọn con đường khác để giúp nghề rèn của xã tìm được tương
lai tươi sáng hơn. Thời gian qua, ông đã đến từng lò rèn khảo sát thực
trạng của nghề, tổng hợp làm hồ sơ trình các cấp có thẩm quyền công
nhận ấp Cầu Bông là làng nghề truyền thống. Không dừng lại ở đó, ông
còn tính đến việc thành lập hợp tác xã ở làng nghề này nhằm giúp các
chủ lò có được nguồn vốn ưu đãi để phát triển, mở rộng thêm nghề, và
sản phẩm của bà con khi ra thị trường không bị thương lái ép giá…
Hơn 5 giờ chiều, tiếng quai búa lục cục, leng keng, tiếng giũa xoèn
xoẹt trong nhà ông Út Nhựt vẫn vang lên đều đặn. Ông ra sân nhìn những
người thợ miệt mài bên những thanh sắt nung đỏ rực, nói với khách mà
như nói với chính mình: “Ngày nào không nghe tiếng búa gõ là tôi chịu
không nổi”. Nói xong, ông nở nụ cười rồi đọc mấy câu thơ dân dã bằng
niềm tự hào, và sự lạc quan với đời, với chính cái nghề rèn của xứ
mình: “Lưỡi cày, bàn nạo, dao phay/Có lụt thì mài chớ đừng chửi rủa/Bà
con có của thì tôi có công/ Hàng này có tận Cầu Bông, Thủ Thừa”.
Theo: nhandan.org.vn