Tương
truyền xưa kia Đống Cao vốn là vùng đất hoang sơ, cây cối cổ thụ um
tùm, là nơi trú ngụ, làm tổ của nhiều đàn muông thú. Đất lành chim đậu,
người trong vùng thấy vậy đã bảo nhau khai cơ lập ấp, lâu dần thành làng
mạc trù phú và đặt tên làng là Dương Ổ. Theo sách “Dư địa chí” do
Nguyễn Trãi biên soạn thì nghề làm giấy dó ở Đống Cao xuất hiện trước
thời Trần.
Theo khảo cứu của tác giả Vũ Từ Trang- một nhà thơ người Bắc Ninh- thì
nghề làm giấy dó ở Đống Cao có từ thế kỷ thứ II sau Công nguyên. Khi ấy
Thái Luân- người sáng chế ra giấy bên nước Đông Hán (Trung Quốc) trong
một lần cùng 13 người bạn hành phương Nam, đến thành Đại La, mỗi vị đã
dạy cho dân một nghề thủ công khác nhau.
Vốn giỏi nghề làm giấy nên Thái Luân đã dạy cho dân làng Yên Thái (ven
Hồ Tây) và Đống Cao (Kinh Bắc) nghề làm giấy dó. Sau khi ông mất, dân
thôn hai làng Yên Thái và Đống Cao tôn ông làm Tổ nghề. Ngày 16 tháng 8
Âm lịch hàng năm, hai làng đều tổ chức giỗ Tổ nghề để tưởng nhớ bậc tiền
nhân có công truyền nghề khi xưa .
Nguyên liệu làm giấy dó là cây dó mọc trên rừng được chuyển về, bóc lấy
vỏ phơi khô cho vào bề ngâm nước 48 tiếng, sau đó vớt lên buộc thành
từng bó nhỏ cho ngâm với nước vôi đặc. Tiếp đó cho vào thùng phi đun
liên tục trong 24 giờ rồi vớt ra rửa sạch, đem giã nhuyễn tạo bột, kết
hợp với chất nhầy từ nhựa cây mò tạo hỗn hợp kết dính. Hỗn hợp này gọi
là "huyền phù" mà người thợ sẽ pha với nước độ loãng hay đặc tùy theo
loại giấy.
Khi seo giấy, người thợ dùng "liềm seo" (khuôn có mành trúc, nứa hay dây
đồng ken dày) chao đi chao lại trong bể bột dó. Lớp bột dó trên liềm
chính là tờ giấy dó sau khi kết thúc công đoạn ép, phơi, nén hay cán
phẳng. Xơ dó kết lại với nhau như cái mạng nhện nhiều lớp, tạo nên tờ
giấy dó xốp nhẹ.
Các công cụ sản xuất hầu như bằng tre, gỗ và dùng ánh sáng tự nhiên để
làm khô giấy. Giấy dó sản xuất thủ công không có độ axít nên tuổi thọ
cao. Sản phẩm chính của giấy dó Đống Cao là giấy vàng quỳ dùng làm bản
thác văn bia, làm tranh Đông Hồ; giấy tăng sin dùng để quấn trong các
quả pin chống ẩm, sản xuất tấm cách âm, cách nhiệt, làm màng loa máy thu
thanh; giấy dùng làm quạt, phục dựng các ấn bản sách cổ với các loại
kích cơ như giấy phương, giấy trúc, giấy khay…
Năm 1949 khi tản cư lên Phú Bình Thái Nguyên, người Đống Cao đã mở lò
giấy Bắc Sơn phục vụ kháng chiến với 160 tàu seo giấy, sản xuất được
hơn 2 triệu tờ giấy bình dân và gần 5,7 triệu tờ giấy đánh máy cung cấp
cho chính quyền cách mạng. Vào cuối những năm 1960, nghề làm giấy dó
truyền thống ở Đống Cao được khuyến khích phát triển, bộ mặt làng quê có
nhiều đổi thay tích cực.
Đây chính là tiền đề giúp người dân địa phương từng bước chuyển hướng
sang sản xuất giấy công nghiệp, nâng cao năng suất, chất lượng, đa dạng
hoá chủng loại sản phẩm, tạo uy tín và chỗ đứng trên thị trường. Hiện
tại Đống Cao có gần 150 hộ chuyên làm giấy với trên 90 doanh nghiệp dân
doanh, tạo việc làm cho hàng nghìn lao động địa phương và các vùng lân
cận
Song hành với phát triển kinh tế, nhiều nét đẹp văn hoá vẫn được người
Đống Cao trân trọng, gìn giữ như sinh hoạt văn hoá quan họ trong lễ hội,
đặc biệt là tục “cỗ con gái”. Trước đây mỗi khi có con gái đi lấy
chồng, gia chủ đều làm “cỗ con gái” gồm cả cỗ mặn và cỗ chay để cô dâu
thết đãi bạn gái của mình trước ngày vu quy. “Cỗ con gái” đề cao đức
tính cần cù, khéo léo của các thôn nữ mà chỉ riêng Đống Cao mới có. Hay
như tục thờ Bà Đống trong lễ hội làng mùng 7 tháng Giêng âm lịch hàng
năm trong mối kết giao giữa hai làng Đống Cao và Hoà Đình, phường Võ
Cường.
Vào đêm mùng 6, làng Hoà Đình cử ra 12 cô gái xinh đẹp nết na rước kiệu
Bà Đống ra khu Đống Cả gần làng Đống Cao tế lễ và xin rước Bà Đống về
thờ. Bên Đống Cao cử 12 chàng trai chưa vợ, mỗi người cầm một đòn lao
tre quấn giấy đỏ, bên các cô gái mỗi người cầm một chiếc quạt che trước
bụng.
Khi diễn trò, bên nam cố làm sao ấn tượng trưng đòn tre vào bụng các
thôn nữ, các cô gái sẽ tránh để đòn tre không chạm vào mình. Khi đoàn
rước của làng Hoà Đình ra khỏi phạm vi làng Đống Cao thi cuộc giằng co
kết thúc.
Đám rước làng Hoà Đình về đến chùa làng thì trời cũng rạng sáng. Trò
diễn này hiện đã chuyển sang buổi chiều và đang được Bộ Văn hoá, Thể
thao & Du lịch xây dựng đề án giúp địa phương khôi phục nhằm bảo tồn
một nét đẹp trong văn hoá lễ hội vùng Kinh Bắc- Bắc Ninh.