Đánh bạc mồ hôi
Ngô Tất Tố đã mở đầu thiên phóng sự Việc
làng bằng lời trăng trối của cụ Thượng làng Lão Việt: “Hủ tục không
phải là thứ thiên kinh, địa nghĩa, nó vẫn có thể thay đổi, nếu phái trí
thức để ý đến sự khai hoá cho dân quê. Nhưng vì chúng tôi là một lớp
người bị bỏ sót trong luỹ tre xanh, con mắt của phái trí thức ít khi ngó
tới. Bởi vậy, những tục lệ quái gở, mọi rợ mới được tự do kế tiếp nhau,
chồng chất lên vai chúng tôi” (*).
Gần một thế kỷ sau lời trăng trối của cụ Thượng, lớp người đó vẫn bị bỏ sót.
Chúng tôi đến Phù Lãng vào một chiều mưa
phùn, nơi đây hoa xoan vẫn rụng đầy trên những con đường làng lấm lem
bùn đất, những căn nhà ngói im lìm chìm trong hương hoa bưởi. Căn nhà
ngói ba gian của vợ chồng chị Hà – anh Hoà núp lùm sau đống đất sét án
ngữ ngay cổng vào cùng những khối quan, quách chưa nung xếp đầy khắp
sân. Màu đỏ sậm của đất sét thấm đẫm mưa xuân như màu thịt da con người
nơi đây thi gan cùng sương gió.
Ai đến nơi đây, đứng giữa không gian này
có lẽ đều phải xúc động bồi hồi mà sống lại những ký ức về làng quê cổ
tích thuở ấu thơ. Nhưng đằng sau vẻ đẹp thanh bình, yên ả đó, là những
đôi mắt, những giọt mồ hôi, những bàn tay, bắp thịt người thợ làng, ngày
này qua ngày khác, tháng này qua tháng khác, vật lộn với trời đất nắng
mưa, mà vẫn không thoát khỏi ám ảnh, cái nghèo, cái khổ.
Chị Hà, người chuyên làm tiểu sành ở
làng gốm Phù Lãng (Bắc Ninh) than thở: hàng phải qua lái, không tiêu thụ
ngay được. Nhiều khi người ta ép, hàng bán từ đầu năm cuối năm mới được
lấy tiền. Hàng rẻ, lại nhiều người làm, nên họ ép lắm.
Mỗi tiểu sành bán cho thương lái 40.000
đồng, cả bộ quan – quách 80.000 đồng. Trừ chi phí đất sét, củi… lời
khoảng 5.000 đồng/cái. Hai vợ chồng làm suốt cả năm đốt được 4 – 5 lò,
mỗi lò khoảng 1.000 cái, tính ra thu nhập khoảng 20 – 30 triệu đồng.
Nhưng thực tế không phải vậy. Lò thủ công, đốt củi nên không điều chỉnh
được nhiệt độ. Đốt non quá thì hỏng cả lô, đốt lâu quá thì bị nổ, có lò
có khi không đủ vốn. Lô nào mà đất xấu thì có khi hỏng cả lò. Bấp bênh
lắm, không khác gì đánh bạc.
Vợ chồng chị Hà có một đứa con gái ba
tuổi, chị lại đang mang bầu sắp sinh. Cả nhà chỉ trông vào mấy sào ruộng
và nghề làm tiểu sành gia truyền. Không biết làm gì khác nên họ phải cố
bám lấy nghề mà sống, mà nuôi con.
Ám ảnh nghèo khó
“Hai tháng, ba tháng nó lại về, lại cho
con tiền con đóng tín chỉ kỳ hai, kỳ ba là chết dở. Nói học là cứ học
thôi chứ chả biết thế nào”, anh Phúc, hàng xóm chị Hà, nhà chuyên làm
chum vại đựng rượu, than. Vợ chồng anh Phúc – chị Phượng lấy nhau được
20 năm, có ba con, con cả đang học đại học ở Hà Nội.
Theo tính toán của chị Phượng, nhà có
năm sào ruộng coi như đủ gạo ăn, còn làm nghề chỉ đủ trang trải chi phí
chợ búa hàng ngày, tiền ăn học cho con. Anh Phúc chồng chị Phượng nói
chen vào: những đứa trẻ ở đây không muốn theo nghề này nữa. Vất vả thì
vô cùng mà thu nhập thì bấp bênh. Tôi cũng muốn chúng biết nghề tí,
nhưng chả đứa nào chịu.
Thực ra, ở Phù Lãng hôm nay không nhiều
người còn muốn bám theo nghề truyền thống, làm tiểu sành, làm chum vại.
Ai có điều kiện thì đều theo làm gốm mỹ nghệ, nhanh giàu. Chị Hà nói: ai
cũng nói sao chúng em không làm mỹ nghệ. Thực ra hoa văn gì đó không
khó, làm quen thì cũng làm được thôi. Nhưng hàng mỹ nghệ đầu ra khó.
Phải có người ở trường mỹ thuật giúp liên hệ được đầu ra ở ngoài. Hơn
nữa, hàng này lại phải đối mặt với thử thách nghiệt ngã của thị trường,
của thị hiếu bấp bênh, ngắn hạn. Sản phẩm này hôm nay đang chuộng, cả
làng đổ xô sản xuất thì hôm sau ế chỏng chơ.
Hỏi khắp đầu làng, cuối ngõ, câu chuyện
cuối cùng vẫn chỉ là sự đơn độc của người quê. Một mình đối mặt với rủi
ro của lửa, đất, than, củi, rủi ro của thương lái ép giá, của thị
trường. Đáng ra, giữa cái thời mà hoá chất công nghiệp, đồ sản xuất hàng
loạt tràn lan khắp nơi thì những sản phẩm tinh khôi từ đất, nước, cỏ
cây (**), thấm đẫm mồ hôi, hơi thở con người phải là những
thứ quý hiếm, phải là những thứ cao giá, nhưng trớ trêu thay, ở đây nó
vẫn rẻ mạt. Như thế, chẳng phải là họ, người quê nơi đây vẫn là những
lớp người bị bỏ sót đó hay sao?
(*) Bài báo Lớp người bị
bỏ sót của Ngô Tất Tố đăng trên Hà Nội Tân văn số 5.3.1940. Một số câu
trong bài bị Pháp kiểm duyệt, chúng tôi dùng bản đầy đủ của GS Phan Cự
Đệ sưu tầm, giới thiệu.
(**) Ở Phù Lãng, ngày nay
người ta vẫn dùng lò đốt than củi để nung, chứ không dùng lò gas, lò
điện. Men gốm ở đây cũng hoàn toàn làm từ vật liệu tự nhiên. Một loại
men truyền thống làm từ bùn lấy ở sông Cầu và than củi nghiền ra. Muốn
có một loại men khác, tạo màu vàng lươn thì họ bỏ thêm vôi bột vào.
Theo: Motthegioi.vn