Theo sách cổ thì những nón nhẹ, đẹp, sáng, giá tới 20 quan tiền, nhưng nón thô, xâu cũng không dưới 2 quan. Dân gian có câu:
“Nón Hạ mà buộc quai thao
Lưng ong thắt đáy, trai nào chẳng ưa”
Nón Hạ đường kính khoảng trong ngoài 0,50 m, thành đứng chứ không khum
như nón xứ Bắc, cao khoảng 0.10 m; ngoài lợp lá kè non, may rất khéo;
trong có cài hoa, chữ “thọ” hay hình “phượng ngậm bao kinh”, bằng chỉ tơ
ngũ sắc; chính giữa gắn một cái “gàu” đan nan tre vót nhỏ, lật ngửa.
Khi đội thì đặt lên mái tóc; đáy “gàu” đính gương tròn, khi đi có thể
nghiêng nón soi; quai thao tết rất công phu, hai đầu có ngù tua, mắc vào
hai cái móc bạc cong, đính vào nón giống như mỏ vịt nên gọi “quai thao
mỏ vịt”. Loại nón này là một sản phẩm mỹ nghệ, giá đắt bằng mười loại
nón thường, nên chỉ dành cho nhà sang trọng, khá giả. Còn loại nón thô,
mộc, quai vải, có khi là một sợi mây, giá rẻ, ai cũng mua được. Nón Hạ
chỉ đội khi đi chợ, đi cưới, đi hội hè hay đi chơi xa…Còn đàn ông, sang
trọng thì dùng nón lông, nón dứa (Gò Găng); thường thì đội nón chớp sơn
cũng đã là ao ước của các cô gái: “Em ngồi em ước một ngài.- Mặc cái
quần lụa Hạ.- Sắt chạc (dây) lưng tơ đờn- đầu đội nón chóp sơn…”. Theo
tài liệu giữa thế kỷ XIX, thì xưa “Học trò đội nón Thượng (làng Việt Yên
thượng làm). Kẻ thanh quý đội nón Xuân Canh (tục gọi là nón Lứ), người
đi cày đội nón nhỏ trên tròn (?) đàn bà cũng như đội như thế. Nay (1857)
thì ai cũng đội nón chóp nhọn học trò thêm nan tre sơn đen, quai nón
bằng lụa trắng có dải thòng xuống.
Theo: Dulichvietnam