Với khoảng 3.000 làng nghề,
trong đó có khoảng 40% làng nghề có tuổi đời trên 100 năm, Việt Nam có
nhiều tiềm năng phát triển du lịch làng nghề, nhưng việc khai thác tiềm
năng này còn hạn chế.
|
Làng nghề gốm sứ Bình Dương
Ảnh THIÊN BÌNH
Làng nghề truyền thống là nguồn tài
nguyên văn hóa quan trọng tạo nên sự cuốn hút đặc biệt tại điểm đến đối
với du khách. Nhưng việc bảo tồn làng nghề truyền thống và phát triển du
lịch làng nghề còn hạn chế do thiếu vốn, thiết bị và công nghệ thô sơ,
sản phẩm thủ công đơn lẻ nên giá thành cao, mẫu mã không phong phú, bí
quyết bị thất truyền cùng với sự ra đi của nhiều nghệ nhân, quảng bá
kém… là nguyên nhân khiến nhiều làng nghề suy thoái, mai một dần. Du
lịch làng nghề chưa thực sự hấp dẫn bởi cơ sở lưu trú của làng nghề
thường chỉ dừng ở hình thức nhà nghỉ địa phương, các dịch vụ bổ sung
thiếu hoặc đơn điệu.
Theo ông Trần Anh Dũng - Giảng viên
khoa Văn hóa - Du lịch, Trường Đại học Sài Gòn, để phát triển mô hình du
lịch làng nghề các làng nghề, cần tập trung đầu tư nghiên cứu sản xuất
hàng lưu niệm đặc trưng mang tính biểu tượng của làng phục vụ khách du
lịch, phát triển các dịch vụ lưu trú, ăn uống, chú trọng marketing làng
nghề bằng cách tổ chức được những kênh tiếp thị du lịch hiệu quả và phổ
cập kiến thức du lịch làng nghề cho cộng đồng địa phương. Đồng thời tăng
cường sự phối hợp giữa các công ty lữ hành và các làng nghề. Qua kinh
nghiệm của các nước Châu Á, TS.Huỳnh Đức Thiện và ThS. Đặng Thanh Thúy
(Đại học Quốc gia TP.Hồ Chí Minh) cho rằng: Chính sách chủ yếu các quốc
gia Châu Á áp dụng để bảo tồn và phát triển làng nghề gồm đào tạo nghề
cho người lao động, có chính sách đãi ngộ nghệ nhân và thợ giỏi, cho
vay vốn ưu đãi, phát triển hạ tầng của làng nghề, đặc biệt là chính sách
"mỗi làng một nghề” của Nhật Bản. Và quan trọng hơn cả, để phát triển
làng nghề gần như bắt buộc phải gắn với du lịch, hướng đến xuất khẩu.
Theo: daidoanket
|