Nghề rèn Nho Lâm một thời lừng danh và lưu truyền qua các triều đại nhưng nay đang dần lụi tàn theo thời gian.Nghề rèn cổ Nho Lâm
Làng
Nho Lâm nay thuộc xã Diễn Thọ, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An, cách
thành phố Vinh 30km về phía bắc. Nhắc tới Nho Lâm là nhắc tới Cao Lỗ,
danh tướng đầu tiên của Nước Việt. Ông là vị tướng tài dưới thời Thục
Phán An Dương Vương, nguyên quán tại xã Cao Đức, huyện Gia Bình, tỉnh
Bắc Ninh ngày nay. Ông là người đã chế tạo ra nỏ liên châu (nỏ thần) và
truyền cho dân làng Nho Lâm kỹ thuật rèn.
Tương
truyền, ông là người can gián vua Thục đừng gả Mị Châu cho Trọng Thủy,
nên bị vua đuổi đi. Buồn bã việc vua không nghe theo lời can gián nên
ông tìm về Nho Lâm sống ẩn giật và tìm ra mỏ quặng, ông dạy người Nho
Lâm cách luyện quặng sắt và rèn sắt, khai sinh ra nghề rèn Nho Lâm xưa.
Cuộc
hội thảo khoa học do hội khoa học lịch sử Việt Nam và tỉnh Bắc Ninh tổ
chức tại Hà nội (ngày 16 tháng 1 năm 2013) đã chứng minh tổ sư nghề rèn
Nho Lâm và nỏ thần là có thật. Đền thờ Cao Lỗ tại xã Diễn Thọ huyện Diễn
Châu, Nghệ An được nhà nước xếp hạng di tích lịch sử - văn hóa là niềm
tự hào của người dân nơi đây.
|
Tượng danh tướng Cao lỗ, tổ sư nghề rèn Nho Lâm. |
Hưng thịnh một thời
Theo
Nho Lâm phong thổ ký thì trước những năm 1945 là thời kỳ hưng thịnh của
nghề rèn nơi đây, trong làng lúc nào cũng có 600 lò luyện quặng và 300
lò rèn ngày đêm đỏ lửa. Mỗi lò thường có 7 người thợ, các súng thần công
thường thấy ở các tỉnh, thành phủ Nghệ Tĩnh do bàn tay khéo léo của
người thợ Nho Lâm làm ra.
Muốn có sắt
để rèn, người Nho Lâm phải đi bộ gần 20km để khai thác quặng sắt mà
người dân quen gọi là quánh ở động Ngút, đồng Hồi thuộc núi Thiết Sơn
(xã Diên Thọ - huyện Diễn Châu - tỉnh Nghệ An). Mỏ quánh nằm sâu dưới
lớp đất đá cứng nên rất khó đào, phải dùng cuốc, xà beng, ra sức mà đào
mới có thể lấy lên được. Đưa được quánh lên rồi, còn phải sàng sạch, rồi
chiều tối, kẻ gánh bộ, ke đẩy xa cút kít cũng có người dùng thuyền, dọc
theo kênh Sắt, chở về nhà.
Những
người đi lấy quánh đã cực nhọc như vậy, những người đi lấy than cũng lam
lũ không kém. Bởi than luyện sắt phải dùng than gỗ chắc như lim, sến,
táu... Những người đi làm than để luyện sắt phải luồn lách hết rừng này
núi nọ, có khi hàng tuần, mới kiếm được một xe than.
Sau
khi đã có than và quánh, những người thợ lò trực tiếp nấu ra sắt. Thợ
lò hông (lò luyện sắt - pv) không những phải có sức khỏe mà còn phải có
kỹ thuật tốt. So với sức lửa của lò rèn, sức lửa của lò hông nóng hơn
nhiều. Lò hông được tập trung từng khu, hai ba chục cái thành một dãy
dài. Khi quặng và than bỏ vào lò hông rồi, người thụt bễ (thụt bễ là 1
dụng cụ để hút gió) phải ra sức kéo bễ để đưa gió vào lò.
Sau
một thời gian, quặng đã tan hết, xỉ ngừng chảy, sắt đã hoàn nguyên
trong lò, tích tụ thành khối gọi là hòn chai hay hòn gói. Nghiên cứu
tính chất xỉ than ở đây, các nhà khảo cổ cho rằng, đây là phương pháp
hoàn nguyên trực tiếp, tức là dùng than để khử dần ôxy của sắt.
|
Ngày nay, làng Nho Lâm còn rất ít nhà theo nghề rèn truyền thống. |
Muốn
làm sạch xỉ và biến nó thành sắt đặc hơn, kíp thợ phụ phải ra sức đập
hết xỉ bám vào sắt, sắt mới lấy ở lò ra đang rực đỏ, người ta phải rèn
đập thực lực. Kíp thợ phụ này thường là những người rất khỏe, mùa đông
cũng như mùa hè thường chỉ đóng khố, thân hình bóng nhẫy như đồng hun
bắp chân, bắp tay chắc nịch. Để tránh tàn lửa bắn vào người, cháy da
cháy thịt, người thợ lò hông thường đội nón nan chóp nhỏ, đi dép quai
bằng da bò mộc.
Ông Võ Trọng Ôn (90
tuổi) thợ cả một lò rèn làng Nho Lâm xưa chia sẻ “thời còn hưng thịnh,
tiếng đe, tiếng búa ngày cũng như đêm không lúc nào ngớt. Đàn ông rèn
sắt, đàn bà thì gánh hàng đi các chợ. Nghĩ lại thời đấy, tôi thấy nuối
tiếc cho nghề rèn nơi đây”.
Hơn thế
nữa, hai làng rèn nổi tiếng ở Nam Định ngày nay là làng Bảo Ngũ (nay
thuộc xã Quang Trung, huyện Vụ Bản, Nam Định) và làng Vân Chàng (nay
thuộc xã Nam Giang, huyện Nam Trực, Nam Định) có nguồn gốc từ Nho Lâm.
Người ở Vụ Bản lại vào Nho Lâm để học nghề - làm ăn, lập ra xóm nhỏ đặt
là Thiên Bản để nhớ quê. Trong đền thờ Thánh tổ Lư Cao Sơn.
Theo
người dân nơi đây, những người đi rừng, làm nương, làm rẫy dù đường xa
xôi vẫn tìm về lò rèn Nho Lâm để đặt hàng. Bởi đặc tính của đất đồi núi
thường nhiều sỏi đá và rất cứng, chỉ có sản phẩm của lò rèn Nho Lâm khi
sử dụng mới không sứt mẻ mà càng làm lại càng sắc bén. Những con dao
phát rẫy và đi rừng càng cho thấy những tính năng vượt bậc, trong lúc
phát rẫy, đi rừng không may phay phải đá cũng không hề hấn gì.
|
Ông Võ Trọng Ôn hi vọng làng sẽ giữ mãi được nghề truyền thống. |
Nguy cơ thất truyền
Từ
xưa, nghề rèn Nho Lâm là nghề cha truyền con nối. Nhưng hiện nay, nghề
rèn nơi đây đang dần mai một, trong làng nhiều nghệ nhân đã phải bỏ
nghề. Hiện, nơi đây chỉ còn năm lò rèn đang đỏ lửa, đây là con số đáng báo động cho một làng nghề có lịch sử lâu đời.
Anh
Thỏa - thợ cả một lò rèn nơi đây cho biết: “Dù khó khăn thiếu thốn,
hàng hóa làm ra phải bán giá thấp, không xứng đáng với công sức mình bỏ
ra nhưng vẫn phải duy trì và cố gắng mở rộng để sau này truyền lại cho
thế hệ con cháu, không thể để thất truyền nghề rèn mà cha ông để lại.”
Trao
đổi về vấn đề này ông Cao Văn Thành - chủ tịch xã Diễn Thọ cho biết:
“Nghề rèn Nho Lâm có từ lâu đời, trong những năm gần đây, đặc biệt là
những năm đổi mới lò rèn không được như trước đây nữa, việc phục hồi và
mở rộng được như trước đây là rất khó. Nhưng vẫn phải ra sức bảo tồn số
lò rèn hiện có nhằm duy trì truyền thống của ông cha, phục vụ nhu cầu
tiêu dùng của bà con trong làng cũng như các làng lân cận.”
Mặc
dù chỉ còn rất ít lò đang đỏ lửa nhưng các vị cao nhân cùng chính quyền
xã Diễn Thọ đang cố gắng duy trì và truyền bá cho thế hệ trẻ nghề
truyền thống.
Theo: doisong&phapluat