Người ta vẫn nhắc về làng nghề Đào
Xá, ngôi làng nằm trên rẻo đất cuối cùng của Hà Nội, giáp với Hà Nam, nơi mà những
người nông dân chất phác của làng chưa một lần được học về kỹ thuật âm nhạc
nhưng từ bao đời nay vẫn là cái nôi của những nhạc cụ dân tộc.
Vùng đất thiêng Thăng Long - Hà Nội là nơi bốn phương tụ họp, các làng
nghề từ khắp mọi miền đất nước đổ về đây. 36 phố phường Hà Nội là cách gọi ước
lệ, chỉ số nhiều, Hà Nội có nhiều phố nghề hơn thế. Những người thợ tài hoa đã
mang theo cả gia đình, họ hàng, làng xóm lên đây mở nhà, lập phố. Bằng sự cần
cù và tài năng khéo léo, họ đã làm ra được những sản phẩm tinh xảo, cung cấp
cho xứ kinh kỳ và các vùng lân cận, làm cho phố phường ngày càng trở nên sầm uất.
Góp mặt cho Hà thành một
nghề khá đặc biệt, nghề sản xuất nhạc cụ truyền thống, Làng Đào Xá, xã Đông Lỗ, huyện Ứng
Hoà, đã có từ lâu.

Ngoài Đào Xá, ở Việt Nam không có
làng nào chuyên sản xuất những loại nhạc cụ cổ truyền như vậy. Năm 2009, nghề sản
xuất nhạc cụ cổ truyền của làng Đào Xá chính thức được UBND Thành phố Hà Nội
công nhận “Làng nghề truyền thống Hà Nội”.
Theo những người già trong làng kể lại
thì nghề làm nhạc cụ của Đào Xá đã có từ lâu lắm rồi, đến nay cũng khoảng 200
năm. Người mang nghề về làng và truyền dạy lại cho người dân trong làng là cụ
Đào Xuân Lan. Khi các dòng âm nhạc cổ truyền như tuồng, chèo, cải lương, quan họ,
hát ả đào… còn đang thịnh hành thì nghề làm nhạc cụ của làng này phát triển thịnh
lắm, hầu như nhà nào cũng có xưởng chế tác nhạc cụ. Khi ấy, các đám hát, phường
hội đều rất cần những đàn tam, đàn tứ, tì bà... Nghề làm đàn theo đó mà phát
triển và trở thành nghề truyền thống của Đào Xá.
Qua thời gian, tay nghề của những
người dân nơi đây ngày càng được nâng cao. Có một điều lạ là hầu như những người
làm nghề nơi đây không có kiến thức về âm nhạc nhưng âm sắc của mỗi cây đàn họ
làm ra lại rất chính xác. Đàn Đào Xá làm ra đã đi khắp cả nước, đưa đến cho người
nghệ sỹ danh tiếng, cho tên phố thêm nét đặc trưng riêng, như phố Hàng Nón (Hà
Nội), phố Nguyễn Thị Hồng Gấm (Thành phố Hồ Chí Minh)...

Trên con phố Hàng Nón vẫn còn thấy
những cửa hàng bày bán nhạc cụ truyền thống
Nghề làm nhạc cụ truyền thống cũng lắm công phu!
Phải trải qua rất nhiều công đoạn
cùng với sự tỉ mẩn và tài hoa của những người thợ lành nghề mới có thể có được
một cây đàn như ý. Người thợ Đào Xá phải thạo, hay ít nhất là biết về nghề mộc,
chưa kể nghề làm đàn cần phải có đôi tai và cặp mắt tinh tế. Bởi cái chuẩn của
sản phẩm không phải chỉ nhìn thấy đẹp thôi là đủ mà còn phải nghe thấy hay nữa.
Người thợ Đào Xá thường dùng gỗ trắc
và gỗ xoan, gỗ vông làm nguyên liệu làm đàn. Qua các công đoạn xử lý, gỗ được
pha đúng độ dày mỏng, to nhỏ, phù hợp với từng loại đàn. Sau khi chọn được gỗ,
người thợ tạo khung làm dáng, tạo khuôn để làm hộp đàn. Khuôn làm hộp đàn được
chuẩn bị cho phù hợp, sau đó đến công đoạn ghép cần và hộp. Nếu hộp đàn có
thành là gỗ trắc, mặt gỗ vông thì cần đàn lại là loại gỗ trắc được tiện gọt
trang trí kỹ lưỡng. Từ khâu chọn gỗ, ra gỗ, phơi gỗ cho đến công đoạn chắp,
ghép, bịt da trăn, đánh bóng, trau chuốt, khảm trai và hoàn thiện... tất cả đều
được làm theo phương pháp thủ công đúng với kỹ thuật truyền thống.

Người thợ đang chế tác đàn bầu. (Ảnh:
Internet)
Cái khó nhất khi làm một chiếc đàn
là hoàn thiện âm thanh. Người thợ vừa phải biết căn chỉnh, vừa phải biết thẩm
âm để làm sao chiếc đàn đạt được chuẩn mực nhất định. Có một điều lạ là, không
một người làm nghề nào nơi đây có kiến thức về âm nhạc. Từ xưa đến nay, những
người làm nghề chỉ biết dựa vào kiến thức cha ông truyền lại để làm ra những loại
đàn mang những âm sắc khác nhau. Nếu cùng một loại đàn mà cần có những âm hưởng
khác nhau như âm thổ, âm kim thì họ làm rất chính xác. Chỉ dựa vào kinh nghiệm mà
người thợ tìm loại vật liệu làm cho phù hợp, xác định xem làm đàn mang âm sắc
nào... không hề có một công thức hay sách vở nào để dựa vào làm theo.

Đàn tì bà đang thợ được chỉnh dây. (Ảnh:
Internet)
Để theo được cái nghề lắm công phu
này, người thợ thường phải học việc từ 2 - 3 năm. Người học phải thật chỉn chu,
cần mẫn, và phải có tâm với nghề. Và khi đã theo nghề thì đều có thể làm được tất
cả các loại đàn dân tộc một cách thuần thục.
Sản phẩm của làng cũng đa dạng, từ cây đàn bầu,
đàn tam thập lục, đàn đáy, đàn nguyệt, đàn tỳ bà... cho đến những cây nhị, cây
hồ, cây líu... đều có mặt trên thị trường khắp trong Nam, ngoài Bắc, thậm chí
còn được nhiều khách nước ngoài biết đến.
Giờ đây, làng Đào Xá đã
trở thành đất Thủ đô, nhưng nếp quê và cách sinh hoạt của người dân quê thì vẫn
vậy. Những người “nông dân nghệ sỹ” của làng nghề vẫn miệt mài gửi vào cây đàn
những gì tinh tuý nhất của tâm hồn mà quê hương đã vun đắp cho họ và giữ lấy tổ
nghiệp cha ông.

Nghề làm đàn truyền thống nơi đây đặc
biệt là vậy, thế nhưng, trong nhịp sống hối hả của cuộc sống hiện đại, cuốn
theo đó là sự thay đổi của nếp sống, làng nghề xưa giờ đã mai một dần. Giờ đây,
những người chế tác được những nhạc cụ truyền thống của làng còn rất ít, cả
làng chỉ còn có khoảng chục người còn gắn bó với nghề cổ truyền của ông cha.
Nguyên nhân của sự sụt giảm này có lẽ
do để trở thành một nghệ nhân chế tác đàn là điều không dễ. Nghề làm nhạc cụ
truyền thống này đòi hỏi thời gian học dài và người thợ phải thật sự tận tâm. Cùng
với đó, ảnh hưởng của cuộc sống hiện đại, không có mấy người trẻ còn muốn theo
đuổi một nghề vừa đòi hỏi cao về kỹ thuật vừa không đem lại hiệu quả thu nhập
so với những nghề khác.

Nghệ nhân Đào
Văn Soạn, nghệ nhân hiếm hoi còn lại của làng nghề, năm nay đã ngoài 70 tuổi, thế
nhưng, cái nghiệp làm đàn vẫn ngày đêm thôi thúc ông vực dậy làng nghề. Nỗi lo về sự thất
truyền của làng nghề vẫn là điều khiến ông trăn trở mỗi ngày. (Ảnh: Internet)
Qua con phố hàng Nón thuộc khu phố cổ
của Hà Nội, người ta vẫn thấy một vài cửa hàng bán nhạc cụ truyền thống. Dù được
bày bán cạnh những nhạc cụ hiện đại của Tây phương, nhưng những chiếc đàn truyền
thống này vẫn hấp dẫn người xem, người mua. Có lẽ, chính thanh âm của hồn Việt,
văn hóa Việt trong từng nhạc cụ là thứ đã khiến người ta không thể bỏ lơ...
Trang Nguyên
(Tổng hợp)