Trong nắng trưa vàng rực và cái tĩnh lặng êm đềm của ngôi làng cổ,
hình ảnh những đứa trẻ vô tư chơi đùa, cụ già người Chăm mê mải ngồi
nặn gốm bên cửa và những bình, lọ, tượng, tranh gốm đứng lặng im trên
chiếc giá trưng bày cũ kỹ của một xưởng gốm đã khắc sâu vào tôi những ấn
tượng khó quên về một làng nghề vừa bí ẩn, vừa quá đỗi thân thuộc. Đó
là làng gốm Bàu Trúc (Phước Dân, huyện Ninh Phước, Ninh Thuận).
Cái
tên Bàu Trúc vốn gợi cho tôi nhiều tưởng tượng phong phú. Tôi đã tìm
đọc ít nhiều về mảnh đất này trước khi đặt chân đến, nhưng phải tới khi
rong ruổi vào làng, trò chuyện với những người già, những người phụ nữ,
những đứa trẻ "cười nhiều, nói ít", tới khi tận mắt, tận tay chạm vào
cuộc sống ở đây, tôi mới hiểu được vì sao ngôi làng cổ này lại bền bỉ
sức sống đến thế.
Dù
ăn nên làm ra nhờ nghề gốm, có nhiều sản phẩm được xuất đi nước ngoài,
ra thành phố lớn nhưng dọc ngang trong làng không có nhiều nhà cao tầng,
xưởng gốm đồ sộ hay những chiếc ô tô tải lớn nhỏ cồng kềnh chở hàng,
vận chuyển nguyên vật liệu… Nhịp sống an nhiên phủ bóng xuống những bức
tường gạch mộc, những con ngõ quanh co ngang dọc xuyên từ xóm này sang
xóm khác, nhà này sang nhà khác.
“Ở
ngoài Hà Nội vào kia à, mình cũng ra Hà Nội rồi”, một phụ nữ người Chăm
đã cười nói khi đón tôi vào nhà. Và trước cả khi tôi kịp ngồi xuống, cô
đã nhanh chóng ra lấy đất và dụng cụ rồi bắt tay luôn vào nặn một chiếc
bình gốm cho tôi xem. Cô cứ lẳng lặng, vừa làm, vừa trả lời những câu
hỏi của người khách lạ về các công đoạn và lịch sử của làng nghề.
Gốm
Bàu Trúc được làm từ một loại đất sét đặc biệt, được làm sạch, đập
nhuyễn, ngâm nước, ủ rồi trộn lẫn với cát mịn nhào nhuyễn và đem đi tạo
hình. Sản phẩm được đem phơi nắng, rồi lại phơi trong bóng râm, sau đó
mới cho vào lò nung với rơm hoặc củi, canh đúng thời gian vừa đủ để lấy
ra phun màu rồi lại tiếp tục nung cho đến “chín”. Sản phẩm ra lò thường
không cái nào giống cái nào, mang màu sắc mộc mạc, đậm phong cách Chăm.
Chỉ
vào những hoa văn, họa tiết trên những bình, tháp, tượng… cô giảng giải
cho tôi hiểu, không phải ai cũng có thể đảm đương được việc trang trí,
vẽ hoa văn lên gốm. Đó là công việc đặc thù chỉ dành cho những người tài
hoa, nghệ sĩ nhất.
Rồi cô kể về chuyến đi xa xăm, lần cô được ra thủ đô, mang theo những bình gốm “lớn nhất Việt Nam”
để trưng bày tại Hà Nội trong một dịp hội chợ thủ công mỹ nghệ. Qua câu
chuyện của cô, tôi hình dung thấy những người đàn ông và những người
đàn bà tha thiết với nghề, cả cuộc đời miệt mài làm gốm; cả cuộc đời sát
vai nhau nối tiếp cho những mẻ gốm ra lò, cho những sản phẩm gốm độc
nhất vô nhị, nỗ lực để đưa gốm đi thật xa.
Trong
quãng thời gian lang thang qua làng Bàu Trúc của mình, thật kỳ lạ là số
đàn ông tôi gặp chỉ đếm trên đầu ngón tay. Những gương mặt rõ rệt nhất ở
lại trong ký ức của tôi về làng nghề này là những người phụ nữ và những
đứa trẻ con tươi tắn, đầy sức sống.
Những
người phụ nữ trung niên với dáng người cao, đôi mắt to, đen và nụ cười
phảng phất vẻ xinh đẹp thời son trẻ, những bà cụ già với đôi bàn tay
nhăn nheo bế cháu, cổ và tai đeo đầy đồ trang sức ngồi cặm cụi cả ngày
trong xưởng gốm, những đứa trẻ đen nhẻm, tóc xoăn, đôi mắt tròn xoe
không sợ người lạ. Chúng chơi quanh xưởng, trên đường làng, ngồi xem
người lớn nặn gốm, nghịch đất, khóc, cười, và lớn lên…
Những
cô bé 13-14 tuổi sẽ bắt đầu được dạy để làm nghề. Những người con trai
con gái trưởng thành, sống nhờ đất, nhờ gốm, cho đến khi tóc bạc, râu
dài, móm răng… vẫn tha thiết với nghề làm gốm. Những nụ cười tôi gặp ở
làng gốm như một thông điệp không lời, mãi bền bỉ, chung tình với gốm./. Theo: tintucdulich
|