Thợ vàng Định Công, thợ đồng Ngũ Xã
Làng cổ Định Công
Xuôi
theo quốc lộ 1A, cách trung tâm Hà Nội khoảng 8km về phía tay phải là
phường Định Công, quận Hoàng Mai. Định Công hôm nay nguyên là hai xã
Định Công thượng và Định Công hạ của tổng Khương Đình, huyện Thanh Trì,
tỉnh Hà Đông trước năm 1945. Năm 1954, xã Định Công lại thuộc quận VII,
ngoại thành Hà Nội. Nơi đây là một vùng đất cổ và tên Định Công đã có từ
rất xa xưa. Căn cứ vào thần tích hiện thờ tại đình làng, vào đời vua
Hùng Nghị Vương thứ XVIII, sau khi ở châu Ái (Thanh Hóa) về, vua và bà
phi ngự thuyền dọc sông Tô Lịch ngắm cảnh. Thuyền đến bên sông (sau này
là trang Định Công), bà phi trở dạ sinh được một người con trai, tướng
mạo khôi ngô, kỳ vĩ khác thường. Sau lưng có 28 chiếc vảy như hình 28
ngôi sao, tay dài quá gối, thân thể to lớn, mập mạp gấp mấy trẻ thường.
Dân dựng một gian nhà để mẹ con bà phi ở tạm. Vua Nghị Vương bèn thưởng
cho dân 1000 quan tiền, đặt tên cho vùng đất này là trang Định Công,
đồng thời đặt tên hoàng tử là Tràng Sơ và cho lập sinh từ ngay nơi hoàng
tử ra đời. Khi trưởng thành, Tràng Sơ tài kiêm văn võ, nổi tiếng khắp
nơi, ai cũng thán phục. Do có công dẹp giặc ở Châu Đông Hý, hoàng tử
được vua anh phong là Phụ Chính quốc tể Đông Hý Hầu. Quân Thục kéo đến
xâm phạm bờ cõi, vua Hùng sai Đông Hý Hầu cùng Tản Viên Sơn Thánh cầm
quân đi dẹp giặc. Trên đường thắng trận trở về qua cửa biển Bích Hải,
huyện Hoằng Hóa, Ái châu (Thanh Hóa), Đông Hý Hầu hóa về trời. Nhận
được tờ tấu, vua vô cùng thương xót, lập tức xuống chiếu cho dân Bách
Hải lập đền thờ, xuân thu nhị kỳ làm lễ giới tế, lại cho dân nơi đây làm
hộ nhi (trông nom việc thờ cúng tế tự, miễn mọi phu phen tạp dịch).
Đồng thời, vua cũng lệnh cho trang Định Công sửa sang sinh từ, hằng năm
cử các quan về làm lễ theo nghi thức quốc gia. Dân Định Công được miễn
đi lính, không phải đóng thuế để làm hộ nhi, trông nom việc thờ cúng
Đông Hý Tràng Sơ Dực Vũ Đại Vương thượng đẳng phúc thần. Cũng theo thần
tích hiện còn tại làng Định Công, thì Đông Hải đại vương Đoàn Thượng
Chính là hiện thân của Đông Hý Tràng Sơ, vì thế duệ hiệu của thần là
Đông Hý Đông Hải Dực Vũ Đại Vương. Dân gian còn truyền tụng rằng: Khi
Nguyễn Trãi đi qua đền thờ, trời không gió mà cờ cứ bay phần phật, trống
không đánh mà tiếng vang động cả một vùng. Thấy sự lạ, Nguyễn Trãi dừng
ngựa, vào đền thắp hương cầu xin thần phù trợ. Quả nhiên, trận đó quân
ta đánh cho giặc Minh thua chạy tan tác. Thắng trận trở về, Lê Lợi đã
phong thần là Thượng đẳng phúc thần. Trải qua các triều đại, thần đều
được sắc phong và ban cho mỹ tự.
Qua
những sự kiện và dấu tích còn lại, phần nào ta có thể khẳng định Định
Công là vùng đất có lịch sử lâu đời. Đây chính là một vùng đất cổ của
ngoại vi Thăng Long – Hà Nội.
Không giống với làng gồm Bát Tràng, người Định Công thờ cả thành hoàng và tổ nghề.
Truyền thuyết về tổ nghề
Làng anh đất thợ kim hoàn
Để anh đánh nhẫn cho nàng đeo tay.
Một trong những sản phẩm của làng nghề. Ảnh: CDT
Thợ
kim hoàn làng Định Công vốn nổi tiếng từ xa xưa. Theo truyền thuyết thì
tổ sư nghề kim hoàn làng Định Công là ba anh em họ Trần: Trần Hòa, Trần
Điện, Trần Điền. Vào thời Lý Nam Đế (khoảng thế kỷ VI), ở vùng đất nay
là xã Định Công, huyện Thanh Trì, Hà Nội, có ba anh em họ Trần, cha mẹ
mất sớm. Họ phải đùm bọc lẫn nhau kiếm sống. Nhờ có bàn tay khéo léo,
lại thêm đức tính cần cù, chịu khó, anh em cũng tạm đủ qua ngày. Nhưng
cuộc sống không trôi đi yên ả như vậy. Sau khi Lý Nam Đế bại trận, đất
nước dưới ách thống trị hà khắc của bọn xâm lược. Quê hương bị tàn phá,
nhà cửa tan nát, ba anh em phải đưa nhau đi chạy loạn. Khi qua huyện Quế
Dương, thuộc tỉnh Bắc Ninh, không may họ bị lạc nhau, mỗi người một
ngả. Người anh là Trần Hòa chạy sang phường Bắc, xin vào học nghề ở
phường làm đỗ nữ trang. Trần Điện và Trần Điền chạy sang nước khác, vào
làm thuê cho một phường thợ bạc. Mặc dù đều trở thành những người thợ
giỏi, được dân nước sở tại trọng đãi, song nỗi nhớ quê hương, làng xóm,
không lúc nào nguôi trong họ. Thế là không hẹn mà cả ba anh em đều tìm
đường trở về. Cuộc gặp mặt thật vừa mừng vừa tủi. Để ghi nhớ ngày đoàn
tụ, họ cùng nhau mở cửa hàng làm nghề vàng bạc, lấy tên là “kim hoàn”
(vòng vàng). Từ đó, những đồ vàng bạc do ba anh em làm ra rất tinh xảo,
tiếng đồn khắp trong nước. Ba người lại dạy cho dân làng cùng làm nghề,
từ đó làng Định Công có nghề làm vàng bạc, truyền từ đời này qua đời
khác, được khắp nơi biết tiếng.
Thực
ra ba anh em họ Trần chỉ là các vị hậu tổ sư của nghề vàng bạc Định
Công. Bởi lẽ, từ xa xưa, thư tịch cổ Trung Quốc đã ghi chép: Giao Châu
(tên nước Việt Nam thời xưa) là nơi có nhiều vàng bạc, châu báu. Vào
những năm 187 – 226 sau Công nguyên, thái thú Sĩ Nhiếp đã đưa về Trung
Hoa rất nhiều cống phẩm, mà nhiều nhất là những đồ vật chạm vàng bạc.
Sách
Đại Việt sử ký toàn thư cũng chép: Thời Tiền Lê, Đại Hành hoàng đế đã
sai thợ khéo trong nước làm những đồ vàng bạc tinh xảo để làm cống phẩm
cho phường Bắc...
Sau
khi học được nghề kim hoàn do ba cụ tổ họ Trần truyền dạy, dân làng
Định Công, vốn ở sát kinh thành Thăng Long, rủ nhau ra phường Đông Các,
nay là phố Hàng Bạc, để hành nghề. Lúc bấy giờ, phố Hàng Bạc cũng là nơi
tụ hội của thợ bạc Đồng Sâm (Thái Bình) và thợ bạc Châu Khê (Hưng Yên).
Thợ kim hoàn Định Công đến đây, ai có vốn thì mở cửa hiệu bán đồ vàng
bạc cho những nhà quyền quý, giàu có; không có vốn thì đi làm thuê cho
các cửa hàng. Tuy cùng đến làm nghề ở phố Hàng Bạc, song người Đồng Sâm
(Thái Bình), vốn đi bán bạc đong, nay mở cửa hiệu bán khuyên tai, nhẫn,
ống vôi, dây và tích, chóp nón, vòng kiềng... cho những bà chánh, bà lý,
những người dân mạn ngược về mua sẵm. Người Châu Khê (Hưng Yên) đến phố
Hàng Bạc để hành nghề đúc bạc nén và đổi tiền cho khách thập phương về
Thăng Long buôn bán, mua sắm. Vì vậy, thời thuộc Pháp, phố Hàng Bạc còn
có tên là phố Những người đổi tên (Rue des changeurs). Về sau, do thương
mại phát triển, người dân không tiêu bằng bạc nén mà chuyển sang tiền
kẽm và tiền đồng. Thợ Châu Khê phải chuyển sang làm đồ nữ trang, nhưng
do tay nghề không khéo nên thường phải thuê thợ Định Công làm hàng hoặc
gửi con em về Định Công học nghề. Nhờ học được nghề tổ, thợ kim hoàn
Định Công nổi tiếng khéo tay, tài hoa và có nhiều “lương công” (thợ
giỏi). Sự xuất hiện của nghề kim hoàn Định Công góp phần biến phố Hàng
Bạc trở thành trung tâm vàng bạc mỹ nghệ của cả nước. Khách buôn bán xa
gần đến trao đổi vàng bạc, mua sắm các đồ trang sức, tạo nên không khí
sầm uất tại đây. Thợ Định Công có lợi thế ở sát kinh đô Thăng Long nên
họ có thể làm hàng ngay tại cửa hiệu. Họ cũng có thể nhận hàng đem về
quê cho gia đình, con cái làm rồi lại chuyển ra phố bán. Nghề nghiệp
ngày một phát triển thì ngày càng có nhiều gia đình thợ kim hoàn Định
Công chuyển cư ra Thăng Long làm ăn, sinh sống. Họ tậu đất, mua nhà, tập
trung chủ yếu ở phố Hàng Bạc và một số ít ở phố Hàng Bồ.
Nhớ
công ơn tổ nghề, những người thợ Định Công đã quyên góp xây dựng đền
thờ tổ tại số nhà 51, phố Hàng Bạc ngày nay. Vào những năm đầu thế kỷ,
người Định Công đã nhượng lại ngôi đền cho chủ hiệu Tự Ký, đem tiền về
làng xây một ngôi đền thờ tổ uy nghi, lộng lẫy ngay bên cạnh ngôi đình
thờ thành hoàng Đông Hý Đông Hải Dực Vũ Đại Vương. Hằng năm, vào ngày 12
tháng 2 âm lịch, dù đi làm ăn xa đến đâu, những người thợ kim hoàn Định
Công cũng trở về quê, thắp nén hương thành kính tỏ lòng biết ơn tổ
nghề. Nhờ có nghề nghiệp, đời sống người dân ngày một thịnh vượng. Gặp
nhau ai cũng hồ hởi, tay bắt mặt mừng. Từ đáy lòng, họ tin rằng các cụ
tổ sẽ phù hộ để nghề nghiệp ngày một tấn tới. Đợi đến ngày giỗ năm sau,
họ lại gặp nhau với nhiều niềm vui hơn, nhiều thành đạt hơn. Niềm vui
hòa vào mọi nhà tạo nên không khí thiêng liêng và thật xúc động. Nó để
lại dấu ấn và tạo cho mỗi thành viên của làng, của nghề, một niềm tự
hào, một sự gắn bó bền vững muôn đời.
Bản sắc nghề
Tuổi trẻ say mê với nghề. Ảnh: CDT
Đối
với bất cứ nghề thủ công nào, người thợ cũng cần có đôi tay tài hoa,
khéo léo, óc sáng tạo và nết làm ăn cần cù, chịu thương chịu khó. Nhưng
riêng nghề kim hoàn còn đòi hỏi người thợ phải sống có đức, phải giữ chữ
tín với mọi người. Vàng bạc là thứ kim loại quý, không phải ai cũng có.
Trong cuộc sống, người Việt Nam, nhất là thời xưa, ngoài quan niệm vàng
bạc là vật trang sức, đó còn là vật phòng thân những lúc cơ nhỡ hoặc có
việc cần thiết, cho nên người thợ không thể tráo chác trong nghề hay
mua bán trao tay, mà phải chịu trách nhiệm mãi với những sản phẩm mình
làm ra. Vì thế, trước kia, ở Định Công, muốn học nghề thường phải trả
qua thời gian khá dài, khoảng 7- 8 năm. Trước hết, người học việc phải
đem gạo đến nhà thày, ở đó làm những việc vặt trong nhà, đồng thời tự
bản thân phải quan sát, tìm hiểu, học hỏi để quen với nghề. Thày dạy
thường rất nghiêm khắc trong việc truyền nghề. Chỉ khi nào thực sự tin
người học việc có tính thật thà, trung thực, và có hoa tay khéo léo,
thày mới dốc tâm huyết truyền đạt cho những bí quyết nghề.
Trải
qua hàng ngàn năm lịch sử, người thợ kim hoàn Định Công, biết bao thế
hệ cha truyền con nối, đã tạo nên những sản phẩm – những tác phẩm có giá
trị thẩm mỹ trường tồn với không gian và thời gian. Từ những đôi khuyên
tai bạc của phụ nữ nông thôn xưa cho đến những kiềng vàng, xuyến vàng,
nhẫn có mặt hoa chạm, ... của những cô gái tân thời, hay những bà quyền
quý nơi thị thành đô hội, đều toát lên vẻ tinh xảo, sinh động của dáng
hình và đường nét hoa văn trên vật trang sức. Có những vật phẩm không
cần phải chạm trổ tinh vi mà vẫn đẹp bởi đường vòng trơn bóng hay nét
cong uyển chuyển ở tai khuyên. Cũng như nhiều nghề thủ công mỹ nghệ
khác, người thợ kim hoàn làng Định Công xưa thường chạm trổ theo những
mẫu mã truyền thống như long, ly, quy, phượng, hoặc ngư (cá chép), phúc
(con dơi), hạc (chim hạc), hổ, ... Song do tài sáng tạo và sự rung động
nghề nghiệp, người thợ Định Công vẫn tạo ra được những hình mẫu đặc sắc
không giống với bất cứ nơi nào. Đó là những con rồng dũng mãnh khắc trên
bao kiếm của các vị vua anh hùng, hay những con rồng ngậm chữ thọ (long
hàm thọ), hai con rồng chầu mặt trăng (lưỡng long chầu nguyệt), cá chép
rồng đùa nước (ngư long hý thủy), ... trên các mâm vàng, mâm bạc, và
hình chim phượng trên mũ miện của hoàng hậu, công chúa, trên bộ khay
chén, hòm khảm bạc, tráp bạc,... cho đến các bộ xà tích bạc của các bà
các cô, trên cối giã trầu, ... của các cụ già. Trong đồ dùng và những
vật trang sức tương đối thông dụng, thợ Định Công hay chạm những mẫu gần
gũi với cuộc sống đời thường như quả bầu trên chiếc khánh đeo cổ trẻ
con, hình quả vả chạm trên hộp vàng, bạc, ống tiền, và đàn tỳ bà trên
các bình bạc, bát quả (đào, lựu, mận, lê, phật thủ, nho, bầu, bí) trên
mâm bồng, trên khay hoặc chóe bạc chạm tùng, cúc, trúc, mai hay cảnh bốn
mùa...
Quả
là những người thợ kim hoàn Định Công đã sáng tạo ra rất nhiều đề tài
đa dạng, phong phú. Mặc dù độ tinh xảo và trình độ tay nghề cao thấp có
khác nhau.
Trải
qua trường kỳ lịch sử của dân tộc, người thợ vàng bạc Định Công đã
không ngừng đúc kết những kinh nghiệm truyền đời, đồng thời không ngừng
sáng tạo để nghề nghiệp ngày càng hoàn mỹ. Ngày nay, ngắm nhìn những nét
chạm trổ tinh tế, tuyệt mỹ, trên những chén vàng quả bạc, những bao
kiếm, vương miện, đặc biệt là những đôi hoa tai mềm mại, những sợi dây
chuyền lộng lẫy, lung linh trên cổ các cô gái,... ta thật xúc động và
cảm phục bàn tay tài hoa và cần cù của người thợ. Họ đã tạo ra vẻ đẹp
thật sự, quý hơn vàng. Người thợ kim hoàn Định Công luôn đem lại vẻ đẹp
cho đời, song càng tài hoa bao nhiêu, cuộc đời họ lại càng cay cực bấy
nhiêu. Dưới thời phong kiến, các vua chúa luôn truy tìm những thợ giỏi,
tài hoa đưa vào quan xưởng để làm ra những đồ vật cung phụng cho cuộc
sống xa hoa trong cung đình. Nhất là từ khi thực dân Pháp đô hộ Việt
Nam, chúng thấy đồ chạm vàng bạc của thợ Việt Nam được các nước hâm mộ.
Trong những cuộc đấu xảo, đồ nữ trang, rồi bình bạc, lư hương bạc chạm
vàng, hộp bạc, chén vàng, cúp vàng, cúp bạc... được khách hàng đặt mua
rất nhiều. Thế là tư bản Pháp đổ tiền ra thành lập những công ty xuất
nhập khẩu đồ mỹ nghệ vàng bạc. Túi tiền của bọn tư bản nặng bao nhiêu
thì cuộc đời của người thợ tài hoa Định Công càng bị bòn rút, cơ cực bấy
nhiêu.
Cũng
như các nghề thủ công truyền thống trong cả nước, nghề vàng bạc Định
Công đã trải qua không ít những thăng trầm. Ngay những thập kỷ gần đây,
chiến tranh kéo dài, rồi cơ chế bao cấp làm cho nghề suy sụp. Hầu hết
thợ giỏi bỏ nghề làm việc khác kiếm kế sinh nhai. Những nghệ nhân cao
tuổi lần lượt ra đi mang theo những kinh nghiệm, những bí quyết ngàn đời
chẳng biết truyền lại cho ai. Còn một số ít gia đình cố đeo đuổi nghề
của tổ phụ bằng cách hành nghề lén lút, bất hợp pháp, vì thế tài năng
mòn mỏi, vốn liếng cạn dần. Phố Hàng Bạc xưa kia náo nhiệt kẻ mua người
bán là thế, đến giai đoạn này đóng cửa im ỉm hoặc cửa hàng, cửa hiệu,
cho thuê làm việc khác. Một số cơ sở hành nghề của hợp tác xã hay quốc
doanh hoạt động cầm chừng. Sản phẩm làm ra mẫi mã vừa đơn điệu vừa lỡ cỡ
không thích ứng được thị hiếu của xã hội. Sức tiêu thụ trong nước quá
nhỏ, hầu như không đáng kể, trong khi không với được ra thị trường quốc
tế. Công ăn việc làm của thợ vì thế bấp bênh, cuộc sống người thợ gieo
neo, vất vả.
Chính
sách đổi mới của Đảng và Nhà nước như làn gió làm hồi sinh làng nghề
Định Công. Các tổ chức kinh tế (kể cả tư nhân) được tự do hành nghề và
kinh doanh vàng bạc. Thợ Định Công rộn rã sắp đặt lại nhà cửa, sửa sang
đồ nghề đã bị bỏ xó từ lâu, suy nghĩ tìm tòi mẫu mã mới, rồi mở rộng
quan hệ với các làng nghề Đồng Sâm, Châu Khê, khiến phố Hàng Bạc tấp nập
rộn rã hơn xưa.
Trong
xu thế chung của đất nước, làng nghề vàng bạc truyền thống Định Công
đang từng bước thay da đổi thịt. Định Công hôm nay là những khu chung
cư cao tầng sừng sững với cơ sở hạ tầng hiện đại, văn minh. Định Công
hôm nay là những đường làng ngõ xóm trải bê – tông, sạch bóng. Nhà mái
bằng, nhà ngói san sát với khuôn viên rộng mát, đẹp bởi vườn hoa cây
cảnh. Nhà ở của mỗi người thợ vừa là nơi sản xuất lại cũng là nơi mua
bán hàng mỹ nghệ kim hoàn. Khách đến đây không chỉ để mua hàng làm sẵn
mà có thể đặt làm theo sở thích riêng của mình. Đến đây, họ được đắm
mình trong không khí rộn rã của hàng ngàn hộ làm nghề. Và đến đây, họ
cũng sẽ được chiêm ngưỡng ngôi đền thờ ba vị tổ nghề, nhờ đó người thợ
Định Công phát huy nghề tổ xây dựng quê hương ngày càng văn minh, thịnh
vượng.
Ngày
11/7/1990, Hội Mỹ nghệ kim hoàn Việt Nam đã chính thức được thành lập.
Với những chương trình hoạt động thông qua tổ chức của mình, người thợ
kim hoàn trong cả nước, đặc biệt là người thợ Định Công, nơi có nghề kim
hoàn cổ truyền, sẽ tiếp tục phát huy tài khéo, trí tuệ của mình, để mãi
mãi làm đẹp cho đời.
Theo Báo cáo chuyên đề Tổng quan về các làng nghề, phố nghề ở Hà Nội, Đỗ Thị Hảo, Hà Nội, 2007.