Nhắc
đến nghề đúc đồng, người ta thường nhắc đến làng Ngũ Xã (Hà Nội), Ý Yên
(Nam Định) và Đại Bái (Bắc Ninh), ít ai biết rằng Hưng Yên là nơi có
nhiều làng chuyên nghề đúc đồng từ xưa. Một số phường thợ giỏi ở đây đã
lên kinh thành Thăng Long cùng một số phường nghề khác lập nên làng nghề
Ngũ Xã danh tiếng. Trước đây xã Đại Đồng, Văn Lâm, Hưng Yên có 4 làng
làm nghề đúc đồng gồm: Văn Ổ, Xuân Phao, Lộng Thượng, Bùng Đông, trong
đó thợ làng Lộng Thượng có tay nghề cao nhất và vẫn tồn tại đến ngày
nay. Sản phẩm của làng nổi tiếng nhất là lư hương, đỉnh, hạc, nến,
chuông, tượng... được tạo nên bởi kỹ thuật đúc tinh xảo đúc rút qua
nhiều thế kỷ. Theo sử sách, tổ nghề đúc đồng là Khổng Minh Không - Quốc
sư triều Lý thế kỷ XII đã dạy nghề đúc đồng cho dân làng. Mấy trăm năm
trôi qua, giờ đây pho tượng tổ sư được chính những người con làng nghề
đúc lên với tất cả lòng thành kính, biết ơn công lao khai truyền nghiệp
quý. Nhờ có nghề đúc đồng, dân làng Rồng và các vùng xung quanh nhiều
đời no ấm.
Ông Dương Văn Bảo - thợ đúc đồng kỳ cựu làng Rồng hiện nay
Dù
kinh qua những giai đoạn thăng trầm, chiến tranh, hay suy thoái, nghề
đúc vẫn được duy trì bởi quyết tâm của người làng Rồng. Dù đã ngoài 80
tuổi nhưng nghệ nhân Dương Văn Ban vẫn không quên ký ức về giai đoạn khó
khăn của nghề đúc đồng: “Tôi theo các cụ từ năm 13 tuổi, đến 16 tuổi đã
ra nghề. Nhưng cái nghề này cũng thăng trầm lắm, thời chống Nhật phải
ngưng sản xuất, rồi Cách mạng tháng Tám lại dừng một thời gian. Đến năm
1954, mang hàng lên Hà Nội các ông phòng thuế còn bắt. Nhưng lúc ấy tôi
xác định khó khăn cũng vẫn phải làm để giữ nghề, bắt thì tôi đóng thuế
chứ không tội vạ gì cả”. Quyết tâm ấy khiến ông Ban bám trụ với nghề
những khi cả làng đã bỏ hết. Những năm 1970 - 1980, trong làng chỉ duy
nhất lò đúc của ông Ban chung với 3 người anh em còn đỏ lửa. Chính từ lò
đúc ấy, đầu những năm 1980, các ông đã truyền dạy nghề và khôi phục
nghề. Dần dần, số lượng lò đúc tăng lên, giờ cả làng có đến hơn 100 lò.
Nghề quý làng Rồng đã không bị thất truyền.
Đến
giờ, ở tuổi xế chiều, nghệ nhân Dương Văn Ban đã hoàn thành sứ mệnh cả
đời làm thợ đúc đồng, giữ được nghề cho làng. Trong nhà ông còn giữ bộ
đỉnh vuông, tai thùng niên đại gần 100 năm do cụ thân sinh làm như một
báu vật gia truyền. Nhưng tài sản lớn hơn mà ông để lại chính là cả 5
người con trai và các cháu đang ngày đêm say sưa với nghề đúc đồng của
làng Rồng. Ông Dương Văn Bảo - con trai cả của nghệ nhân Dương Văn Ban -
là thợ đúc đồng được xếp vào hàng kỳ cựu của làng Rồng hiện nay. Gần 60
tuổi, cuộc đời ông là mảnh ghép của những giai đoạn chiến đấu ở nhiều
chiến trường, và thời gian còn lại gắn bó với nghề đúc đồng. Trong ông,
vết thương chiến tranh không át đi sự tài hoa của đôi bàn tay, tâm huyết
của con tim, khối óc. Ông Bảo tâm sự: “Đã làm cái gì thì cũng phải kiên
trì, đam mê, vất vả thì nghề nào cũng có. Tôi thích nhất câu này: Nên thợ nên thuyền vì có học/ No cơm ấm áo bởi hay làm. Tôi luôn tâm niệm như vậy, vả lại tôi cũng có chất lính trong người nên gian khổ như vậy cũng là bình thường”.
Rót đồng vào khuôn Ảnh: Lê Bích
|
Gia đình ông
Bảo tiên phong trong những chuyển hướng của làng nghề: từ việc tập trung
sản xuất mặt hàng, cải tiến theo lối mới, hay áp dụng khoa học kỹ thuật
vào sản xuất thủ công truyền thống. Hiện nay, xưởng nhà ông Bảo đang
tập trung làm đỉnh đồng - loại sản phẩm đòi hỏi kỹ thuật cao, tay nghề
vững vàng, bởi nó kết tinh cả giá trị hội họa và điêu khắc. Đây có thể
coi là hàng khó làm nhất trong các mặt hàng đúc làng Rồng. Ở mỗi công
đoạn, người thợ đúc rút ra kinh nghiệm, bí quyết riêng, ngay từ khâu đầu
tiên là làm đất, làm khuôn. Đất làm khuôn không chỉ là loại đất trộn
trấu, mà còn cả loại đất có màu đen để trát các khe, đường viền. Loại
đất đặc biệt này gồm: bùn, sét, trấu đốt lên giã nhỏ, trộn với giấy bản,
giấy dó... mới tạo thành mồi thật mịn để chống nứt và làm cho mặt sản
phẩm nhẵn bóng hơn. Công đoạn làm khuôn tưởng chừng đơn giản, nhưng để
làm được, người thợ có khi phải học đến vài năm, còn thợ vụng, có khi
làm lâu năm vẫn hỏng. Đặc biệt như thao tác “lấy thịt”. Thịt là độ dày
mỏng của lớp đồng khi được rót vào giữa 2 lớp thao trong, bìa ngoài.
Người thợ phải chỉnh sửa khuôn sao cho bên trong đồng đều, để khi rót
đồng không bị chỗ dày, chỗ mỏng. Việc gọt khuôn bên trong chỉ có thể áng
chừng và lấy bằng cảm tính, kinh nghiệm, nên theo ông Bảo đây giống như
việc: “ăn cơm trần gian, làm việc âm phủ”.
So
với các ngành nghề thủ công khác, đúc đồng là một trong những nghề nặng
nhọc và vất vả. Thợ đúc đồng không chỉ đòi hỏi phải có sức khỏe mà còn
cần phải khéo léo, tinh tế. Các động tác tuy đơn giản nhưng tất cả đều
có bí quyết và kinh nghiệm. Gắn bó nghề đúc đồng đã đến năm thứ 60 cuộc
đời, dù vất vả, ông Dương Văn Bảo không hối hận vì đã theo nghề. “Nói
chung, làm bất cứ nghề gì cũng phải yêu nghề, vì nghề nào chẳng có lúc
thăng lúc trầm. Đấy là động lực để tôi chiến đấu lâu dài với nghề này”.