Đến
với di sản văn hóa thế giới phố cổ Hội An, hẳn không ít người đã từng
một lần ghé thăm một làng gốm nhỏ ven sông Thu Bồn, nơi cách nay hơn nửa
thiên niên niên kỷ là một trung tâm sản xuất, buôn bán đồ gốm đất nung
có tiếng, cung cấp sản phẩm cho các tỉnh miền Trung.
Câu ca dân gian xứ Quảng:
“Lửa chi lửa rực sáng lòa
Nghề gốm, nghề gạch Thanh Hà là đây”
đã phần nào phản ánh sự phát triển sôi động của nghề gốm Thanh Hà trong lịch sử.
Ngày
nay, cùng với làng mộc Kim Bồng, làng chiếu Cẩm Kim, làng rau Trà Quế,
làng gốm Thanh Hà tạo thành một hệ thống vành đai làng nghề bao quanh
khu phố cổ.
Thanh Hà cũng như
bao làng gốm cổ truyền khác ở Bắc – Trung bộ có địa thế giao thương
thuận lợi - vừa gần sông (sông Thu Bồn, sông Lai Nghi), vừa cận biển
(biển Cửa Đại), lại kề với cảng thị Hội An nên sớm trở thành một trung
tâm sản xuất gốm đất nung nổi tiếng, cung cấp sản phẩm cho Quảng Nam và
các tỉnh lân cận.
Vào khoảng
thế kỷ XVII, XVII, một số người di cư từ Thanh Hóa, Nghệ An đến Thanh Hà
lập làng, đem theo nghề làm gốm đến nơi đất mới1. Theo chân
của những người đến khai phá, nghề gốm nhanh chóng phát triển, ban đầu
gốm được sản xuất chủ yếu tại làng Thanh Chiêm (nay thuộc khối V phường
Thanh Hà), sau đó chuyển dần lên các ấp Nam Diêu2, An Bang (nay thuộc khối V, phường Thanh Hà).
Từ
thế kỷ XVII, do việc xây dựng các kiến trúc dân dụng ở đô thị cổ Hội An
phát triển nhanh, kéo theo nhu cầu về gạch ngói và vật liệu xây dựng
đất nung tăng cao. Đây là giai đoạn phát triển thịnh đạt nhất của làng
nghề gốm Thanh Hà. Gạch ngói và các vật dụng đất nung từ các lò gốm
Thanh Hà trở thành mặt hàng được các lái buôn theo đường sông đưa đến
khắp các tỉnh miền Trung.
Đến thế kỷ XIX, miếu thờ Tổ nghề gốm được xây dựng Nam Diêu cho thấy giai đoạn này nghề làm gốm vẫn phát triển thịnh đạt.
Cho
đến đầu thế kỷ XX, nghề làm gốm tại Thanh Hà vẫn phát triển rất mạnh,
hoạt động sản xuất, buôn bán diễn ra nhộn nhịp, cả làng có đến 40 – 50
hộ làm gốm với khoảng 200-300 thợ, có nhà có đến 203 bàn xoay gốm3, khoảng 10 hộ có ghe, bầu để phục vụ vận chuyển, buôn bán đồ gốm đến các tỉnh lân cận.
Đội
ngũ thương lái buôn bán, vận chuyển đồ gốm Thanh Hà bằng ghe, bầu,
thuyền trên sông Thu Bồn theo đà phát triển của làng nghề cũng tăng
nhanh về số lượng, trở thành lực lượng trung gian trao đổi hàng hóa giữa
Thanh Hà với các địa phương khác. Họ mang gốm đến các nơi để tiêu thụ
và mang về các hàng hóa lâm, thổ sản để phục vụ đời sống người dân nơi
đây. Cho đến nửa sau thế kỷ XX, hoạt động buôn bán gốm bằng ghe, bầu mới
dần dần bị thay thế bằng các phương thức vận chuyển khác.
Cho
đến nay, gốm Thanh Hà vẫn được làm hoàn toàn bằng tay theo phương thức
thủ công truyền thống. Thanh Hà sản xuất chủ yếu đồ gốm đất nung (không
tráng men), màu gốm đỏ tươi, xương gốm mịn, độ nung không cao lắm.
Quy trình sản xuất ra một sản phẩm qua nhiều bước: làm đất, tạo hình bằng bàn xoay, sửa nguội4, phơi, nung.
Đồ
gốm Thanh Hà được tạo tác từ nguyên liệu đất sét vàng. Nguồn đất sét
nguyên liệu trước đây được khai thác tại chỗ, nay được mua từ Duy Xuyên,
Điện Bàn, Đại Lộc. Theo kinh nghiệm dân gian thì đất sét vàng được chọn
để làm gốm là loại đất có độ dẻo, kết dính, không lẫn tạp chất. Đây là
ba yếu tố quan trọng góp phần cho việc tạo hình phôi gốm được mềm mại,
đẹp mắt. Loại đất này sẽ cho ra sản phẩm gốm có độ chịu lực tốt, màu sắc
áo gốm đỏ/hồng, mịn màng, tươi sáng. Muốn biết độ dẻo của đất, người
thợ ngắt một mẩu đất sét, dùng tay se thành sợi dài (con trạch đất) rồi
bẻ cong, gấp hai đầu con trạch đất lại với nhau, nếu con trạch đất không
bị nứt, gãy là đất sét dẻo.
Sau
khi tuyển được nguồn đất sét tốt, người thợ làm đất phải nhồi, đạp đất
cho mịn, dẻo để loại bỏ dần tạp chất. Nếu đất không đạt độ dẻo, còn lẫn
tạp chất (cát, sỏi, sạn...) thì khi chuốt phôi gốm dễ bị nứt, vỡ. Đất
sét mua về làm nguyên liệu không được để quá lâu (thường không để quá
một năm) vì đất sẽ mất độ kết dính.
Khi
đất đã được luyện kĩ thì khối đất lớn được chia thành từng phần nhỏ để
se thành các con trạch đất. Người thợ chuốt gốm ngắt một lượng đất đủ
dùng để tạo phôi một sản phẩm gốm từ con trạch đất đã se sẵn. Trước khi
tạo dáng phôi gốm phải chuốt phôi. Thường khi chuốt gốm phải có hai
người (phụ nữ), một người đứng, hai tay se con trạch đất để chuẩn bị
nguyên liệu cho các sản phẩm kế tiếp, một chân đứng trụ, chân kia đạp
bàn xoay, người còn lại lấy con trạch đất đặt lên bàn xoay, cuộn dải đất
thành hình trụ tròn rồi dùng tay kết hợp con sò (dụng cụ chuốt gốm),
giẻ lau ướt tạo dáng sản phẩm.
Phôi
gốm sau khi được chuốt tạo dáng xong được đem ra ngoài hong trong bóng
râm, đến khi gốm se mặt sẽ khắc hoa văn. Sản phẩm gốm đất nung truyền
thống ít khi được trang trí hoa văn, nếu có thì chỉ là một - hai đường
chỉ khắc chìm song song trên vai sản phẩm hoặc dùng hoa văn khắc vạch
hình sóng nước.
Phôi gốm sau
khi đã được phơi kỹ được chất vào lò nung, sản phẩm kích thước nhỏ lồng
vào trong lòng sản phẩm kích thước lớn hơn rồi chồng xếp thành tầng
trong lò.
Lò nung ở Thanh Hà trước đây gốm có bốn loại: lò xanh (dùng để nung đồ sành, nhiệt độ nung lớn (trên 1.1000C),
yêu cầu cao về kỹ thuật nung, dẫn lửa, điều tiết lửa, thời gian nung),
lò đỏ (dùng để nung đồ gốm không men, kích thước, quy mô nhỏ hơn lò
xanh, kết cấu, yêu cầu kỹ thuật, nhiệt độ nung thấp không cao như lò
xanh), lò nung ngói, lò nung gạch.
Giai
đoạn những năm 1980, do nguồn tiêu thụ giảm mạnh, đồ sành không được ưa
chuộng nên Thanh Hà dần dần không sản xuất đồ sành, loại lò xanh cũng
dần biến mất. Từ năm 2002, theo chủ trương giảm thiểu ô nhiễm môi trường
của UBND tỉnh Quảng Nam, hoạt động sản xuất gạch ngói trong khu dân cư
cũng bị đình chỉ sản xuất. Đến nay, chỉ có ấp Nam Diêu thuộc khối 5
phường Thanh Hà là khu vực tập trung lò đỏ chuyên sản xuất gốm đỏ truyền
thống, gốm mỹ nghệ, con thổi5.
Trong
quá trình sản xuất, sự phân công lao động giữa nam – nữ, quan hệ giữa
chủ lò với thợ làm gốm, chủ lò – lái buôn, giữa thợ đẩy và thợ chuốt
được hình thành theo những quy định bất thành văn nhưng cực kỳ chặt chẽ
để đảm bảo việc giữ vững quan hệ sản xuất trong làng nghề. Trong một gia
đình, nghề gốm thường truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, trong đó
khâu chuốt gốm do cần sự kéo léo, tỉ mỉ, thường do phụ nữ đảm nhận nên
được truyền nghề từ mẹ sang con gái. Thợ làm đất, thợ lò thường do đàn
ông làm do đây là những công việc cần đến sức khỏe.
Không
gian ấp Nam Diêu hẹp nên chỉ một số ít nhà có đất dựng lều chuốt, cất
lò, phơi gốm, các hộ khác thì thuê đất nhàn rỗi của các hộ lân cận
(không làm gốm) để sản xuất. Theo truyền thống, trước khi nung, các hộ
làm gốm phải liên hệ trước với chủ lò để sắp xếp thời gian nung; mỗi đợt
nung, chủ lò được hưởng vài sản phẩm đẹp nhất, bán để lấy tiền cúng Tổ
nghề và tu sửa lò. Hiện nay, chủ lò cho các hộ làm gốm đến thuê nung.
Sản
phẩm gốm Thanh Hà hiện nay rất phong phú, đa dạng với hàng chục loại
hình, phục vụ cho nhu cầu xây dựng (gạch, ngói), đồ trang trí kiến trúc
(đèn vườn, đèn trang trí, tượng, phù điêu nghệ thuật…) đồ gia dụng (lu,
chum, vại, bình, vò, nồi, hũ, ấm, chén…), đồ nghi lễ, thờ cúng (chân
đèn, lư hương, tiểu sành…), các phương tiện, công cụ sản xuất của nghề
thủ công (âu đựng suốt dệt vải, vại ươm tơ…). Sản phẩm được các lái buôn
vận chuyển bằng phương tiện đường bộ tiêu thụ ở Quảng Nam, Đà Nẵng.
Quy
mô hoạt động của làng gốm Thanh Hà hiện nay chỉ còn 23 hộ làm nghề với
100 thợ gốm. Trong đó, chỉ có sáu hộ chuyên sản xuất gốm đỏ truyền thống
với bốn lò nung gốm, năm bàn xoay chuốt gốm, sử dụng tám thợ chuốt, sáu
thợ đẩy, năm thợ làm đất, bảy thợ lò.
Từ
cuối thế kỷ XX trở lại đây, thợ gốm Thanh Hà đã tiếp thu kỹ thuật làm
gốm mỹ nghệ, trong đó có nhiều loại hình sản phẩm được tạo hình bằng
khuôn rót, nung trong lò ngửa/ lò ga quy mô nhỏ như con thổi, tượng, phù
điêu Chăm, mô hình Chùa Cầu… Một hướng phát triển mới gắn với du lịch
cũng được mở ra cho làng nghề.
Khách
du lịch theo tour hoặc tự mình có thể đến thăm làng gốm, nghiên cứu và
thực hành làm gốm. Ngay từ đầu làng, những gian hàng gốm được trưng bày
trong nhà, ngoài sân, ngay sát lối đi. Gốm treo trên cây, dọc hàng rào,
quanh lối đi theo bước chân khách. Trừ mùa mưa lũ (tháng 10, tháng 11 âm
lịch) nước sông Thu Bồn dâng cao, làng phải tắt lửa lò, thời gian còn
lại trong năm du khách đến Thanh Hà đều có thể tận mắt chứng kiến - tham
gia vào các công đoạn cho đến khi hoàn chỉnh một sản phẩm gốm đất nung
theo phương pháp thủ công truyền thống dưới sự hướng dẫn của các nghệ
nhân. Những sản phẩm do du khách tự tay làm sẽ được cho vào lò nung chín
và trở thành kỷ niệm khó quên theo chân du khách về nước.
Có
thể nói, trải qua thăng trầm của lịch sử, đến nay làng gốm Thanh Hà –
một làng nghề lâu đời, có tính chuyên môn hóa cao - vẫn bảo tồn được
nguyên vẹn những giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể truyền thống,
đặc biệt là những tri thức dân gian về nghề gốm, đồng thời bảo lưu nhiều
tập quán, sinh hoạt tín ngưỡng nghề nghiệp đặc sắc. Trước tác động mạnh
mẽ của nếp sống đô thị, thói quen dùng đồ gia dụng bằng các loại hợp
chất tổng hợp (nhựa, hợp kim, inox…), làng gốm Thanh Hà đã có những bước
chuyển mình nhanh chóng để bắt kịp xu thế phát triển của xã hội, đa
dạng hóa các loại hình sản phẩm và gắn hoạt động nghề nghiệp với du
lịch, bởi vậy không những giữ được nghề cổ truyền của cha ông mà còn mở
rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm ra bên ngoài. Đặc biệt, vẫn có những
người trẻ tuổi không ngại ngần tiếp nối nghề nghiệp của cha ông, để ngày
ngày, ánh lửa từ những lò nung vẫn thấp thoáng quanh làng, cho ra đời
những mẻ gốm mới, để sản phẩm gốm Thanh Hà hiện diện trên từng góc phố
cổ Hội An và nhiều vùng lân cận.
---
* Thạc sĩ, giảng viên. Đại học Văn hóa Hà Nội
1
Đến nay tộc Nguyễn Văn, Nguyễn Viết có 15, 16 thế hệ sinh sống ở Thanh
Hà và hiện có nhiều hậu duệ của các tộc trên là thợ gốm.
2
Nam Diêu nghĩa là lò gốm phía Nam. Nam Diêu ở gần nơi có trữ lượng đất
sét là ấp An Bang, Thanh Chiếm (Thanh Hà - Hội An), Thanh Chiêm (Điện
Bàn). Mặt khác, Nam Diêu là cồn - đảo, mặt giáp sông Lai Nghi và Thu Bồn
và nằm cận tỉnh lộ 607, cách không xa quốc lộ 1A nên rất thuận tiện cho
việc tiếp nhận nguyên liệu, trao đổi hàng hóa bằng đường bộ, thủy.
3 Bàn xoay gốm: dụng cụ làm gốm, thường được làm bằng gỗ mít, đường kính 60cm - 100cm.
4
Sửa nguội: phôi được phơi nắng cho khô dần, sau đó thợ nhắm phơ (chỉnh
sửa phôi) làm cho cân đối phôi rồi đem phơi cho cứng hẳn.
5
Con thổi (tò he) là sản phẩm gốm nặn bằng tay theo hình các con thú
trong 12 con giáp. Ở làng gốm Thanh Hà hiện có khoảng 15 hộ chuyên sản
xuất mặt hàng này.
Theo: tiasang