Làng nghề, phường nghề cổ là nơi lưu giữ những tinh hoa nghề thủ công
truyền thống của dân tộc, đặc biệt hơn khi được hình thành trong cái nôi
văn minh châu thổ sông Hồng rộng lớn. Ngày nay, nhiều làng nghề thủ
công cổ truyền đất bắc đã biến thành những trung tâm sản xuất. Tuy
nhiên, nỗi lo mai một nghề cổ trước những biến đổi nhanh chóng của cuộc
sống và công nghệ hiện đại là hiện hữu.
Giữ nghề trong nỗi lo mai một
Ðồng bằng sông Hồng được tạo nên bởi hệ sông Hồng và hệ sông Thái
Bình. Những dòng sông không chỉ bồi đắp nên một vùng phù sa màu mỡ mà
còn xây dựng nên những giá trị văn hóa bền vững và có sức lan tỏa rộng
lớn, trong đó có hệ thống những làng nghề lâu đời. Làng gốm Thổ Hà của
tỉnh Bắc Giang là một trong những làng nghề cổ truyền như thế, xuất hiện
từ hàng trăm năm trước. Ðể có được một làng nghề bên sông Cầu hiền hòa,
trữ tình, những người dân nơi đây đã trải qua biết bao gian nan, bằng
mồ hôi lao động tạo dựng nên một cuộc sống bình yên và sầm uất với "vốn
liếng" chỉ duy nhất một thứ nghề cổ làm gốm nổi tiếng lưu truyền dân
gian.
Cụ Cáp Trọng Tuất, nghệ nhân 80 tuổi làng gốm Thổ Hà giơ cho tôi xem
bàn tay dính đầy đất sét vàng ươm bên chiếc bàn xoay làm nghề. Cụ nói:
"Chỉ từ đất và bàn tay này thôi, bao đời rồi, từ thời ông bà rồi đến tôi
và con cháu nặn nồi bát ven sông... Nghề nối nghề mà, không thể bỏ
được". Cũng từ những bàn tay lao động và tâm hồn thôn quê chân chất ấy,
các giá trị nghề đã được nâng thành văn hóa và thấm đẫm trong từng sản
phẩm. Ngôi làng Thổ Hà với những ngõ hẻm sâu hun hút bên bờ tường cao
được bồi đắp không biết bao nhiêu tầng tầng, lớp lớp các vại, bình, mảnh
gốm sứ lèn đất níu chân lữ khách bâng khuâng, luyến tiếc. Vậy mà giờ
đây, gốm Thổ Hà đang ngoắc ngoải. Từ một làng nghề nổi tiếng, người dân
phần lớn sống bằng nghề, giờ đi khắp làng tìm kiếm cũng chỉ còn lại ít
hộ làm nghề. Chúng tôi đã tìm đến hộ gia đình nhà chị Trịnh Thủy Tiên,
một phụ nữ trung niên. Theo lời chị kể, cha của chị là cố nghệ nhân
Trịnh Ðắc Tân từng một thời vang danh đất gốm. Trước khi nhắm mắt xuôi
tay ông vẫn kịp truyền lại cho con cháu các bí quyết làm nghề với lời
nhắn nhủ: "Nghề gốm phải trụ vững đến mai sau và con cháu họ Trịnh quyết
không để mai một". Nhớ lời dặn của cha, chị cùng các con, các cháu tiếp
tục làm nghề, tiếp tục vượt qua những khó khăn, thách thức và cả rủi
ro: "Ðến đời tôi là thứ mười, ý thức gìn giữ, lưu truyền nghề gốm cổ đã
ăn vào máu, in vào tâm khảm rồi. Chỉ mong con cháu mai sau hiểu được và
làm theo chứ không để nghiệp nghề cha ông đổ sông đổ bể".
Chạm bạc Đồng Xâm (Thái Bình) đang chế tác sản phẩm.
Nỗi lo thất truyền và tình yêu với nghề cổ của những nghệ nhân, thợ
nghề như cụ Tuất, chị Tiên ở làng nghề Thổ Hà cũng là nỗi niềm chung của
các nghệ nhân, thợ thủ công ở làng nghề chạm bạc Ðồng Xâm thuộc xã Hồng
Thái, huyện Kiến Xương (Thái Bình). Chúng tôi đến đây vào buổi trưa một
ngày cuối thu nắng nhẹ, những lọn rơm phủ kín đường làng, êm đềm một
mầu vàng óng ả. Ngoài kia, con sông Vông lặng lẽ chảy về xuôi và nguồn
nước trong lành vẫn như người mẹ ôm ấp ngôi làng nuôi giữ cho nghề chạm
bạc vẫn còn "sáng láng". Qua lời ông Phạm Văn Nhiêu, người nghệ nhân
được coi là "cây đa cây đề" trong làng mới thêm hiểu rõ khát vọng về
nghề chạm bạc được nuôi dưỡng ở Ðồng Xâm từ đời này qua đời khác lớn đến
thế nào. 50 năm theo đuổi nghề với bao nhiêu khó khăn, mồ hôi và cả
nước mắt từ khi là cậu thanh niên mới lớn, giờ đây ông đã gần 65 tuổi
nhưng "tuổi không đuổi được đam mê". Ông nói: "Giờ khác ngày trẻ, chỉ
mong may mắn có thêm sức khỏe mà tiếp tục được yêu cái nghiệp mấy đời
theo đuổi".
Chị Loàn, một người thợ chế tác cho biết: "Ðồng Xâm giờ khác xưa
nhiều. Người làng đã kết hợp nghề truyền thống với tổ chức kinh doanh,
phát triển những sản phẩm hợp thời nhưng không mất đi kỹ thuật truyền
thống nên thu nhập cũng tăng mà người làm nghề chúng tôi cũng an tâm để
giữ nghề". Ðó cũng chính là lý do để nghề truyền thống ở đây vẫn được
thế hệ trẻ theo đuổi bởi họ tin vào tương lai phát triển của nghề và một
đời sống kinh tế khá giả hơn. Nguyễn Văn Tuân là một người thợ trẻ say
mê nghề chạm bạc. Tận dụng tất cả khoảng không gian, từ ngôi nhà đang ở,
đến sân vườn,... nhiều khi anh Tuân phải huy động anh em trong xưởng
làm ngày, làm đêm sản xuất và hoàn thành các hợp đồng đặt hàng. Anh nói:
"Chúng tôi có niềm đam mê và dám nghĩ dám làm. Có lẽ vì thế mà các bậc
Tổ nghề đã thấu hiểu và phù hộ cho nên mới được như thế này. Khi cuộc
sống ổn định hơn, anh em thợ mới yên tâm gắn bó với nghề". Cứ vậy, những
hoa văn mềm mại, mang đậm dáng hình dân tộc, đất nước cứ hiện dần, hiện
dần dưới những mũi chạm của các nam, nữ nghệ nhân trẻ trước một tương
lai tươi sáng ở Ðồng Xâm và đây là lý do để chúng tôi cảm thấy đỡ lo hơn
về tương lai của những làng nghề cổ.
Du lịch làng nghề, một hướng đi bền vững
Các làng nghề đất bắc cần bắt nhịp với những thay đổi của cuộc sống
hiện nay và sự phát triển của công nghệ hiện đại. Ðó là cơ hội và cũng
là thách thức mà những làng nghề truyền thống phải nhanh chóng nắm bắt
để chuyển mình. Du lịch chính là một trong những hướng để các làng nghề
cổ có thể bảo tồn và phát triển. Phó Tổng cục trưởng Du lịch Nguyễn Mạnh
Cường cho biết: "Du lịch làng nghề truyền thống rất hấp dẫn du khách
quốc tế chưa nói đến còn góp phần bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa
độc đáo của vùng miền, của dân tộc và vai trò của nó với làng nghề là rõ
ràng. Ðầu tiên đó là cách thức để tăng thu ngoại tệ và nâng cao thu
nhập, sau đó là phát huy giá trị văn hóa làng nghề bên cạnh kích thích
phát triển hạ tầng kỹ thuật thông qua hoạt động du lịch, góp phần quảng
bá, mở rộng thị trường, đa dạng sản phẩm và cuối cùng là giải quyết việc
làm cho người dân địa phương".
Tiềm năng phát triển du lịch làng nghề của vùng đồng bằng sông Hồng là
rất lớn, qua hoạt động khai thác của các tua lữ hành tại Hà Nội, vùng
đất nghìn năm văn hiến, "đất trăm nghề". Vấn đề đặt ra ở đây là đánh
thức tiềm năng đó như thế nào, bởi không phải cứ có nhiều làng nghề thì
có nghĩa là dễ dàng phát triển du lịch làng nghề. Nếu không có sự đầu
tư, khai thác tốt thì tiềm năng vẫn chỉ mãi là tiềm năng. Chủ tịch Hiệp
hội Làng nghề Việt Nam Lưu Duy Dần phân tích: "Thực tế là nước ta có
nhiều làng nghề nhưng du lịch làng nghề lại chưa phát triển. Ước tính
hiện cả nước chỉ có khoảng 20 tuyến du lịch từ bắc vào nam trong đó 35%
là du lịch làng nghề hoặc du lịch gắn với làng nghề theo các tuyến đã
định của ngành du lịch. Con số đó là rất ít ỏi so với tiềm năng". Trong
khi đó, các tua du lịch làng nghề Hà Nội thì mới chỉ đang ở mức bề nổi,
du khách chỉ tham quan hoặc tới xem một số ít làng nghề cổ và sức hấp
dẫn đối với du khách vẫn còn thấp. Ðiều này dẫn đến việc khách không
chọn đến thăm làng nghề như một điểm đến thật sự bởi những người kinh
doanh loại hình này chưa tổ chức được một hệ thống du lịch tổng hợp,
khai thác đầy đủ tiềm năng. Chưa nói đến, hầu hết các dịch vụ du lịch đi
kèm ở các làng nghề truyền thống chung quanh Hà Nội còn yếu kém, chưa
tương xứng tiềm năng. Ngay cả hai làng nghề nổi tiếng như lụa Vạn Phúc
và gốm Bát Tràng dù được quan tâm nhiều nhưng trong mắt du khách vẫn rất
"nhạt nhòa". Họ đến chỉ để mua sản phẩm chứ không phải vì ở đó có cơ sở
hạ tầng tốt trong khi các nghệ nhân, gia đình được chọn giao lưu và
trải nghiệm nghề cùng du khách thì gần như không có vai trò quan trọng
thu hút khách.
Trước thực tế đó, chính quyền các địa phương cần phối hợp ngành du
lịch nghiên cứu và tập trung vào chiến lược đầu tư cụ thể và lâu dài cho
việc phát triển du lịch làng nghề không chỉ Hà Nội mà còn cả khu vực
đồng bằng sông Hồng rộng lớn khác. Theo nhiều chuyên gia, nên lựa chọn
đầu tư cho những làng nghề truyền thống tiêu biểu để khôi phục và quảng
bá những sản phẩm nổi tiếng cả trong nước lẫn ngoài nước. Ðã có một số
làng nghề làm thành công mà điển hình là gốm Chu Ðậu với những sản phẩm
từng được nhiều nơi tìm về đặt hàng làm quà tặng cho du khách trong nước
và ngoài nước. Nhận định về hướng đi này, Chủ tịch Hội nghệ nhân thợ
giỏi Hà Nội Vũ Mạnh Hải cho biết: "Nghệ nhân gạo cội, tài hoa ở các làng
nghề lâu đời thì không thể để sản xuất hàng chợ xoàng xĩnh. Ðiều đó chỉ
gây phản cảm và đem lại tác dụng phụ trong mắt du khách, nhất là du
khách quốc tế". Bên cạnh đó, cần xây dựng và nâng cấp các tuyến du lịch
làng nghề đã và đang triển khai như du lịch đưa khách đến làng gốm Bát
Tràng, lụa Vạn Phúc, gốm Phù Lãng, Thổ Hà, Chu Ðậu, đồng Ðại Bái, thêu
Quất Ðộng,...
Sự quan tâm của chính quyền địa phương, các cấp, ban, ngành có tính
quyết định để du lịch làng nghề phát triển. Gần đây nhất, UBND thành phố
Hà Nội đã ký Quyết định số 14/QÐ - UBND ngày 2-1-2013 về phê duyệt quy
hoạch nghề, làng nghề TP Hà Nội đến năm 2020, định hướng năm 2030. Với
mục tiêu chính là phát triển làng nghề mới, bảo vệ và phát huy giá trị
truyền thống; rà soát phân loại làng nghề, các làng nghề cần duy trì,
bảo tồn hoặc chuyển nghề khác; phát triển các sản phẩm thủ công thế
mạnh, gắn sản xuất làng nghề với hoạt động du lịch, văn hóa, lễ hội...
Hy vọng với sự chung tay đồng lòng của chính quyền, nghệ nhân và người
dân, du lịch làng nghề Hà Nội nói riêng và các tỉnh đồng bằng sông Hồng
nói chung sẽ có bước đột phá trong thời gian tới.
Theo: NhanDan