“Cả làng bây giờ chỉ có vài
hộ còn có việc để làm, nhưng thu nhập chỉ đủ ăn qua ngày chứ không được
dư dả. Đơn đặt hàng ít, nhiều người trong làng còn đi các nơi để “tiếp
thị”, tìm kiếm đối tác, nhưng cũng chẳng ăn thua. Người dân đành tự tìm
việc khác thay thế. Trẻ trong làng ít lưu tâm vào việc học làm trống.
Nhìn nghề làng dần mai một, tiếng trống dần thưa thớt, chúng tôi xót lắm
- ông Nguyễn Viết Khê, Trưởng thôn An Quang xã Lãng Ngâm, Bắc Ninh trầm
ngâm cho hay.
|
Hy vọng làng nghề trống không bị thất truyền. |
Làng nghề 200-300 tuổi
Ghé vào cơ sở chuyên làm trống của ông
Nguyễn Quang Ngạc (tuổi gần 70), ngừng tay, tạm thu dọn “chiến trường”,
ông chạy ra đón khách. Trong sân nhà ông phơi la liệt da trâu và những
đoạn gỗ mít. Bên chén trà xanh mát lành, ông Ngạc kể lại thời “hoàng
kim” của làng nghề.
Thấm thoắt, ông gắn bó với công việc làm
trống hơn 40 năm. Ông kể, nghề làm trống đã có ở An Quang khoảng
200-300 năm nay. Ông Tổ nghề của làng là người gốc làng Đọi Tam (tỉnh Hà
Nam) đến đây định cư, thấy trong vùng chỉ có nghề nông nghiệp, lại thấy
nguồn nguyên liệu dồi dào đã dạy cho dân làng cách làm trống.
Về sau nghề được truyền khắp làng. Hầu
hết nhà nào cũng làm trống. Hồi đó, đời sống kinh tế rất khó khăn nhưng
người dân ở các làng quê rất coi trọng món ăn tinh thần đó là hội hè,
múa hát nghệ thuật…Và những buổi đó không thế thiếu tiếng trống.
Trống có đất “dụng võ” và người làm nghề
cũng có “cơm ăn”. Trống của An Quang “chu du” khắp Hải Dương, Hưng Yên,
Bắc Giang, Lạng Sơn… Các thợ làm trống An Quang có thể làm được nhiều
loại trống khác nhau theo kích cỡ từ 20cm tới 2m. Hồi xưa, với nghề làm
trống, có thể đảm bảo cuộc sống cho 6 miệng ăn một cách “ngon lành” chứ
không vất vả như làm nghề nông. Thời đó, tính ra một cái trống bằng 50
tạ thóc. Trung bình một tháng, gia đình ông Ngạc làm khoảng 6 cái trống.
Để làm được một chiếc trống đòi hỏi sự
kỳ công, khéo léo và am tường nghề của người thợ. Một chiếc trống hoàn
chỉnh thường qua ba bước, gồm: làm da, làm tang và bưng trống. Trong đó
khâu quan trọng nhất là chọn gỗ. Gỗ làm trống thường được lấy từ cây
mít. Đây là loại gỗ dẻo, mềm, có đặc tính nhẹ, xoắn thớ, khi đóng không
bị cong vênh hoặc nứt.
Bên cạnh đó, gỗ mít ít bị co giãn và có
sức đàn hồi tốt nên giữ được hình dáng nguyên vẹn, khi sử dụng âm thanh
không bị vỡ. Gỗ mít càng già thì âm thanh càng đanh, vang và rất trầm
hùng.
Gỗ làm trống được cắt làm nhiều khúc,
sau đó pha thành từng dăm. Tùy theo kích cỡ của trống mới định ra bao
nhiêu dăm, cũng như độ cong, độ dẻo của dăm để khi khép với thân trống
vừa khít, không có khẽ hở. Những chiếc dăm trống được khép khít và mài
nhẵn tới mức mắt thường khó có thể nhìn thấy vết ghép. Khâu cuối cùng
đặc biệt quan trọng là bưng trống.
Da trâu được quây tròn, căng hết cỡ trên
mặt trống. Người thợ dùng đinh chốt được làm từ thân tre già đóng cố
định vào thân trống. Da được chọn để làm trống phải là da trâu, đem bào
hết lớp màng, ngâm nước và xử lý kỹ càng rồi phơi khô, sau đó được lọc
mỏng để bịt trống. Da làm trống phải là da trâu cái, được đem bào hết
lớp màng, sau đó ngâm nước, khử mùi, chống thối rồi phơi khô 3 nắng.
Da trâu không được sử dụng muối để bảo
quản và phải căng ra phơi khô ở nhiệt độ 300 độ C là tốt nhất. Tre làm
đai trống là tre bánh tẻ, còn tre làm đinh để ghim da trống với tang
trống phải là tre đực già.
Việc tạo dáng cũng vô cùng nghệ thuật và
khéo léo, làm sao để trống tròn, đẹp, hài hòa, cân đối. Thân trống là
sự cộng hưởng âm thanh của cả mặt trống và tang trống.
…đang “teo tóp” sống
Làm trống là một công việc rất kén chọn
người, không phải cứ ai muốn theo nghề cũng có thể trở thành thợ giỏi.
Anh Nguyễn Quang Tuyển, 31 tuổi cho hay: “Người làm trống phải có “tai
nghe”, phải biết thẩm âm để nắm được độ vang, nền, nẩy của từng loại
trống vào từng mục đích sử dụng như hội làng, trống trường, trống văn
nghệ, trống đám tang, trống trẻ chơi Rằm Trung thu....
|
Không khí bắng vẻ ở làng trống |
Cơ sở làm trống của anh Tuyển vào diện
“máu mặt” ở làng với nhiều hợp đồng làm trống ở các tỉnh lân cận. Vào
những ngày gần Rằm Trung thu, gia đình anh có nhiều việc hơn. Tháng 10
âm lịch đến ra giêng là khoảng thời gian bận rộn nhất của những người
thợ làm trống.
Chiếc trống nhỏ nhất hiện có giá từ 300 -
500 nghìn đồng, chiếc to hơn có giá khoảng hơn chục triệu đồng, thậm
chí có những chiếc lên đến cả trăm triệu. Theo anh Tuyển, nếu có đơn đặt
hàng thường xuyên thì trừ chi phí, thu nhập mỗi tháng khoảng hơn chục
triệu đồng.
Nhưng không phải gia đình nào cũng như
nhà anh Tuyển. Nếu xưa kia thời cực thịnh, cả làng có hơn trăm gia đình
làm nghề thì bây giờ “teo tóp” còn khoảng gần chục nhà còn đam mê với
những tiếng tùng, cắc.
Có lẽ làng trống An Quang phải “chu du” ở
những hội chợ du lịch làng nghề truyền trống ở cả nước để tìm hướng mở
cơ hội tìm kiếm thị trường, khẳng định rõ nét thương hiệu làng nghề. Có
vậy, hy vọng làng nghề trống không bị rơi vào “âm thanh trầm”, dần bị
thất truyền.
Theo: Phapluat&XaHoi