Một người thợ
nhà quê, không có chức vụ, danh phận, cũng không đỗ đạt gì, thế mà bỗng
chốc được vua ban tước đứng hàng thứ hai trong 5 tước, thì quả là kỳ lạ,
có thể nói đó là hiện tượng “độc nhất vô nhị” trong lịch sử hai ngàn
năm phong kiến Việt Nam.
Chuyện về “Kỳ tài hầu” Tô Phú Vượng,
không người dân nào ở xã Đồng Minh là không biết, không coi đó là niềm
tự hào. Chuyện rằng nghe lời đồn về tài chạm khắc của anh thợ làng Tô
Phú Vượng, vua Lê Hiển Tông (1717-1786, làm vua từ 1740-1786) đã triệu
anh về kinh để làm chiếc ngai vàng cho mình. Làm xong, nổi hứng lên, Tô
Phú Vượng bèn ngồi luôn lên ngai để… thử. Nhìn thấy thế, nội giám vội
tri hô, Tô Phú Vượng lập tức bị bắt vì tội “khi quân phạm thượng”, bị
kết tội tử hình và bị tống ngục chờ thi hành án.
Nằm dài trong ngục, Tô
Phú Vượng tẩn mẩn lật mớ rơm dùng thay chiếu cho tử tù, tìm được 7 hạt
thóc còn sót, ông bóc thóc ấy thành gạo và chỉ mấy ngày sau, đàn voi 7
con đã được ông tạc xong từ 7 hạt gạo đó. 7 con voi ở 7 tư thế khác
nhau, con đứng, con nằm, con quỳ… tất cả đều vô cùng sinh động và tinh
xảo. Nhìn 7 tác phẩm nghệ thuật đó, viên quản ngục vô cùng thán phục,
vội tâu lên nhà vua, vua ra lệnh đem 7 con voi gạo đó lên ngự lãm, và
cũng như viên quản ngục, nhà vua vô cùng thích thú, thán phục, ra lệnh
tha cho Tô Phú Vượng, ban cho tước “Kỳ tài hầu” và cho về quê.
|
Từ thời Lý, Đồng Minh có tên là trang
Linh Động còn ngày nay, xã Đồng Minh thuộc huyện Vĩnh Bảo (TP Hải
Phòng). Xã có 3 làng là Bảo Động, Hà Cầu và Mai An. Từ hơn năm trăm năm
nay, Đồng Minh đã được người tứ xứ biết đến nhờ các nghề điêu khắc, tạc
tượng và múa rối. Nhiều pho tượng nổi tiếng ở những chùa, đền nổi tiếng
như chùa Mía, chùa Thầy… ở xứ Đoài, tương truyền đều do thợ Đồng Minh
tạc.
Ngày nay, thợ Đồng Minh vẫn đi khắp
thiên hạ để thi thố tay nghề tạc tượng và điêu khắc. Ngày giỗ tổ nghề
thực sự là một ngày hội của cả 3 làng. Tổ nghề ba làng là cụ Nguyễn Công
Huệ. Theo ngọc phả, thì cụ Huệ sinh vào cuối triều Trần. Diệt xong
triều Hồ, cùng với việc bắt nhiều thầy thuốc, nho sỹ… giỏi của ta đem về
nước, quân Minh bắt rất nhiều thanh niên trai tráng làm phu tải những
đồ do chúng cướp được về Trung Quốc và sau đó tống luôn họ vào quan
xưởng (những xưởng sản xuất của triều đình) để làm việc.
Nguyễn Công Huệ là một trong số những
chàng trai phảI làm phu tải đồ đó. Chính trong thời gian làm việc tại
quan xưởng triều Minh, cụ đã học được nghề điêu khắc, tạc tượng, rồi sau
đó tìm cách thoát khỏi quan xưởng nhà Minh, trở về làng, truyền nghề
cho dân. Từ thời thuộc Minh đến triều Lê Hiển Tông là quãng thời gian
trên 3 thế kỷ, không biết bao nhiêu thế hệ học trò của cụ Huệ đã kế tiếp
nhau giữ gìn và phát huy, nâng cao nghệ tổ truyền, mà Kỳ tài hầu Tô Phú
Vượng chính là người đã nâng nghệ thuật tạc tượng, điêu khắc lên đến
đỉnh cao nhất.
 |
 |
Tượng Linh Lang đại vương được gắn bộ phận điều khiển bí mật nên có thể đứng (ảnh trên) hoặc ngồi (ảnh dưới)
|
Ngày nay, tượng tổ nghề Nguyễn Công
Huệ được thờ ở gian phía trái tiền đường của miếu Bảo Hà. Đó là tượng
một cụ già râu tóc bạc phơ, gương mặt phúc hậu. Về Đồng Minh mà không
thăm miếu Bảo Hà thì chưa thấy hết cái tài hoa của nhiều thế hệ nghệ
nhân tạc tượng, điêu khác và múa rối nới đây.
Bảo Hà là ngôi miếu chung của cả 3
làng Bảo Động, Hà Cầu và Mai An. Miếu còn có tên là Tam xã thượng đẳng
từ, thờ thượng đẳng thần Linh Lang đại vương, được dân 3 làng tôn làm
thành hoàng. Theo thần phả, thì ngài là con vua Lý Thánh Tông, tên húy
là Hoằng Chân. Mẹ ngài là cung phi thứ 9 của vua Lý Thánh Tông, quê ở xã
Bồng Lai huyện Đan Phượng trấn Sơn Tây (nay thuộc Hà Nội). Hoàng tử
Hoằng Chân sinh ngày 13 tháng chạp năm Giấp Thìn (1064) tại Thăng Long,
lớn lên, hoàng tử trở thành người tài kiêm văn võ. Khi giặc Tống sang
xâm lược nước ta, hoàng tử về trang Linh Động để luyện quân chống giặc.
Khi ngài mất, dân trang Linh Động đã lập miếu thờ và tôn ngài làm thành
hoàng. Các triều đại phong kiến về sau đều có sắc phong ngài là thượng
đẳng thần.
Không biết có sự nhầm lẫn nào trong
thần phả không, bởi vua Lý Thánh Tông hiếm hoi, chỉ có 2 người con trai
là thái tử Càn Đức và hoàng tử Sùng Hiền hầu, đều là con của “cô gái tựa
gốc dâu”, tức Nguyên phi Ỷ Lan. Khi nhà vua mất ở tuổi 49, thái tử Càn
Đức mới 7 tuổi đã phải kế vị - tức là vua Lý Nhân Tông - dưới sự nhiếp
chính của mẹ. Và cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Tống xảy ra năm
1060, trong khi theo thần phả thì năm 1064 hoàng tử Linh Lang mới sinh.
Nhưng thôi, đúng sai là việc của các nhà sử học, người viết bài này chỉ
ghi chép lại những gì đã trở thành niềm tin của người dân nơi đây.
Điều đáng bàn, cũng là điều kỳ diệu ở
đây, chính là pho tượng Linh Lang đại vương thờ trong miếu. Đó là bức
tượng một chàng trai trẻ, gương mặt toát lên vẻ thông minh, đĩnh ngộ,
hai bên có hai người hầu. Bình thường, tượng ngồi trên ngai, tay cầm một
bảng văn. Nhưng khi cánh cửa miếu vừa mở ra thì như có một phép màu,
tượng bỗng từ từ đứng dậy, và khi cửa miếu khép lại thì tượng lại từ từ
ngồi xuống, cả động tác đứng lẫn ngồi của tượng đều rất khoan thai, đĩnh
đạc, khiến bất cứ ai vào cũng kinh ngạc và thán phục…
Sau nhiều lần quan sát, chúng tôi mới
khám phá ra bí mật của pho tượng biết cử động này. Thì ra, đây chính là
sự kết hợp tuyệt hảo giữa nghệ thuật tạc tượng và nghệ thuật múa rối,
hai sản phẩm của những người dân 3 làng Bảo Động, Hà Cầu và Mai An. Một
“cỗ máy” bí mật được dấu ngay trong cánh cửa, và bộ phần điều khiển
giống như bộ phận điều khiển con rối được nối từ đó với pho tượng. Khi
cánh cửa mở ra khép vào, “cỗ máy” phát ra lực khiến bộ phận điều khiển
chuyển động, làm pho tượng đứng lên hay ngồi xuống.
Theo các cụ trong ban quản lý di tích
miếu Bảo Hà, thì miếu đã có 700 năm tuổi. Còn pho tượng Linh Lang đại
vương thì không rõ được tạc thời nào. Nhưng nếu tượng là sản phẩm của
những người thợ Đồng Minh, thì chắc chắn tuổi tượng ít hơn tuổi miếu, vì
nghề tạc tượng, điêu khắc chỉ có ở đất này từ thế kỷ 15, khi người dân ở
đây được tổ nghề Nguyễn Công Huệ truyền cho.
Năm 1991, Tam xã thượng đẳng từ, tức
miếu Bảo Hà, đã được Bộ Văn hóa xếp hạng là di tích cấp quốc gia, và
ngôi miếu cùng pho tượng Linh Lang đại vương độc nhất vô nhị này mãi mãi
là niềm tự hào của nhân dân trong xã.
Nguồn: Báo Nông nghiệp Việt Nam