Từ vỏ cây dó được thợ làng nghề làm thành các thếp giấy, các cuộn
giấy dó lưu giữ những giá trị văn hóa lưu truyền qua bao thế hệ.
Nghề làm giấy dó Phong Khê nổi tiếng
hàng trăm năm nay với việc sản xuất ra loại giấy có độ bền chắc, dai gấp
nhiều lần so với loại giấy bình thường và có tuổi thọ lên đến hàng trăm
năm.
Giấy dó được sử dụng chủ yếu trong việc
ghi chép và hội họa. Điều đó được thể hiện rõ qua những văn tự ghi chép
lịch sử của các triều đại xưa, những ghi chép gia phả của các họ tộc,
những bức tranh dân gian Đông Hồ nổi tiếng, những bức thư pháp, những
bức tranh thủy mặc.
Nguyên liệu để làm giấy dó được lấy từ
vỏ cây dó, trồng nhiều ở các tỉnh phía Bắc như Yên Bái, Lào Cai, Thái
Nguyên, Cao Bằng. Chất lượng nhất vẫn là thứ dó người Dao, người Mèo ở
Cao Bằng, trồng 3 năm thu hoạch một lần. Vỏ dó sau khi mang về sẽ được
ngâm nước rồi xé nhỏ, dẫm với vôi đã tôi rồi đưa vào lò nấu; khi dó chín
sẽ được đem trao cho sạch vôi, sau đó dùng dao lột hết vỏ ngoài chỉ lấy
ruột. Ruột dó được đưa vào cối giã nhỏ…
Công đoạn quan trọng nhất, đòi hỏi sự
khéo léo, tài hoa của người thợ làm giấy dó và quyết định đến chất lượng
giấy là việc seo giấy. Liềm seo giấy là tấm mành nứa được căng trên
khuôn gỗ. Người ta chao đi chao lại liềm seo trong bể bột giấy dó để lớp
bột dính trên mành của liềm seo. Sau đó, người ta tháo phần khuôn gỗ,
úp ngược mành nứa để lớp giấy dó phía dưới được xếp chồng chính xác lên
lớp giấy trước, mành nứa được nhấc lên xếp lại vào khuôn.
Giờ đây, làng nghề Phong Khê chỉ còn 4
hộ làm giấy dó. Giấy làm ra chủ yếu cung cấp cho làng tranh Đông Hồ. Tuy
vậy làng tranh Đông Hồ hiện cũng chỉ còn 2 nghệ nhân giữ nghề là cụ Chế
và Cụ Sam. Còn làng Hồ giờ chuyên làm vàng mã. Nghề làm giấy dó cũng
đang đứng trước nguy cơ bị mai một./.
|
Cây dó được trồng nhiều ở các tỉnh miền núi
phía Bắc. Dó mang về, lột lớp vỏ đen, lấy lượt vỏ trắng ngâm nước vôi
24h mùa hè, 36h mùa đông. Sau đó vớt ra, bó thành từng mớ, ngâm vào nước
vôi tôi, chuyển sang thùng nấu. Một ngày sau, dỡ ra lại ngâm nước cho
hết vôi, nhặt bỏ từng mấu nhỏ còn sót lại. Dó đem đi rửa tiếp, cho vào
bể ngâm 15-20 ngày, rồi vớt ra, cho vào cối giã nhuyễn, đem đãi lấy nước
trong, cho vào bể... Tính sơ sơ từ cây dó ra được tờ giấy phải qua 10
công đoạn, tức là gần một tháng
|
|
Công đoạn quan trọng nhất, đòi hỏi sự khéo
léo, tài hoa của người thợ làm giấy dó và quyết định đến chất lượng giấy
là việc seo giấy
|
|
Sau đó, người thợ tháo phần khuôn gỗ, úp
ngược mành nứa để lớp giấy dó phía dưới được xếp chồng chính xác lên lớp
giấy trước trên chồng giấy...
|
|
...và mành nứa được nhấc lên xếp lại vào khuôn
|
|
Những tấm giấy dó có kết cấu xốp do được hình thành từ các lớp xơ và bột của vỏ dó nên khả năng bắt màu tốt
|
|
Những chồng giấy ướt được đặt lên trên máy
ép khô nước để tăng độ kết dính và định hình của giấy. Ép khô nước trước
khi sấy giúp chất lượng giấy và bề mặt giấy đồng đều hơn
|
|
Giờ giấy dó được phơi trong nhà. Khoảng 20
tờ giấy được ốp lên tường nhà. Sau khoảng 1 tuần là khô người ta dỡ
xuống rồi bóc ra thành từng tờ |
|
Giấy dó được sử dụng chủ yếu để in ra tranh dân gian Đông Hồ nổi tiếng
|
|
Hoặc vẽ những loại tranh truyền thuỷ mạc hoặc thư pháp. |
|
Hình ảnh làm giấy quen thuôc ở làng thể hiện trên tranh gốm gắn trên thành giếng làng để mọi người luôn tụ hào về nghề của làng.
Theo: Pháp Luật Việt Nam
|