Thăng trầm làng kim hoàn cổ nhất đất Thăng Long
(Ngày đăng: 02/11/2011 Lượt xem: 936)
Từ xa xưa, làng
Định Công Thượng đã được coi là một trung tâm phục vụ vàng bạc lớn nhất
Kinh thành Thăng Long. Nhưng, trải qua những biến cố thăng trầm, làng
nghề nức tiếng một thời của người Thăng Long xưa đã mai một. Hiện, cả
làng chỉ còn một vài nghệ nhân nặng lòng giữ nghề cha ông.
“Thợ vàng Định Công, thợ đồng Ngũ Xã” Nằm bên bờ sông Tô Lịch, xưa kia, làng cổ Định
Công còn được gọi với tên “Định Công kim hoàn” như nhắc nhở đời con
cháu mai sau biết về làng nghề nổi tiếng của mình. Bây giờ, người Hà Nội
vẫn còn truyền tụng câu ca: “Lĩnh hoa Yên Thái/ Đồ gốm Bát Tràng/Thợ
vàng Định Công/ Thợ đồng Ngũ Xã” hay “Làng anh đất thợ kim hoàn/ Để anh
đánh nhẫn cho nàng đeo tay”...
Sản phẩm đậu bạc Khuê Văn Các Theo các cụ già trong làng, tổ nghề liên
quan đến ba anh em họ Trần: Trần Hòa, Trần Điện, Trần Điền (sinh thời
khoảng năm 571- 603). Có thể nói, đây là một trong những làng nghề kim
hoàn cổ nhất của đất Thăng Long - Hà Nội nghìn năm tuổi. Trong làng có
Đền thờ Tổ nghề Kim Hoàn cạnh ngôi đình thờ thành hoàng Đông Hý Đông Hải
Dực Vũ Đại Vương. Ngày 12 tháng 2 âm lịch hàng năm, những người thợ kim
hoàn Định Công dù làm ăn buôn bán thành danh nơi đâu lại tề tựu về cố
hương tưởng nhớ biết ơn tổ nghề. Ngày nay, trong cơn lốc đô thị hoá mạnh mẽ,
làng cổ Định Công – Hoàng Mai (Hà Nội) không còn là một làng quê đơn
thuần. Nó đã trở thành phố phường sầm uất. Trong cuộc sống mưu sinh nơi
đô thành lầm bụi, Định Công đón nhiều khách thập phương từ nơi khác đến,
song, có lẽ ít người biết, nơi đây từng là làng nghề nổi tiếng kinh
kỳ Thăng Long về nghề Kim hoàn. Nhiều chủ vàng lớn trên phổ Hàng Bạc
(phố cổ Hà Nội) có gốc tích từ làng Định Công và họ đã từng dựng miếu
thờ tổ nghề tại đó.Khổ luyện giữ nghề… Dư âm của một thời vàng son ấy giờ chỉ còn
tìm thấy qua những di tích với một vài nghệ nhân đang gắng sức giữ lửa
nghề. Cán bộ văn hoá phường Định Công- bà Mai Thị Thanh Hà, cho biết:
Ngày trước, ngoài kim hoàn, ở địa phương còn có nghề làm giầy da, tương
ớt… Trải qua những năm tháng thăng trầm, hầu hết những nghề này đã mai
một. Nghề kim hoàn, ở Định Công vẫn còn hai nghệ nhân là ông Quách Văn
Trường và Quách Văn Hiểu. Họ vẫn duy trì mở lớp đào tạo tại nhà cho
những thanh niên nhiều nơi về học. Anh Quách Phan Tuấn Anh, sinh năm 1981 con
trai duy nhất của ông Trường nối nghiệp cha, tâm sự: Tốt nghiệp đại học,
Tuấn Anh đi làm cho ngoài thời gian thì về phụ giúp cha giữ nghề Đậu
bạc. Nghề kim hoàn có 3 mảng chính: trơn, chạm, đậu. Trong đó, Định Công
có thế mạnh nổi bật Đậu bạc. Tất nhiên, nghệ nhân nào cũng có thể thành
thạo cả 3 mảng.Quách Phan Tuấn Anh: "Để có sản phẩm mang hình một con rồng thế này, nghệ nhân phải ghép tỉ mỉ hàng nghìn các hoa văn họa tiết" Để có tay nghề thành thạo như hôm nay, Tuấn
Anh phải mất nhiều năm khổ luyện. Anh nói, quy trình Đậu bạc truyền
thống của làng trải qua nhiều công đoạn tỷ mỉ như nấu, cán, kéo, se và
ghép... Ai không chịu khó, kiên trì khó có thể học được. Từ những miếng bạc lớn nguyên chất dùng bễ
nấu thành các thanh bạc nhỏ. Khi miếng bạc bỏ vào nấu đến khi chảy ra,
đổ vào chão chảy thành dạng thanh mất khoảng 5- 10 phút/1 thanh. Trong
quá trình nấu, công việc khó nhất của các nghệ nhân là phải giữ nhiệt
đều, liên tục để nhiệt luôn mạnh. Nếu nhiệt không đều bạc sẽ bị đông bề
mặt, không chảy được, nổi gân... Những thanh bạc sẽ được đưa qua máy cán để
nó nhỏ dần hơn. Đến đây, những thanh bạc sẽ được sử dụng vào nhiều mục
đích khác nhau như làm khung, tạo xương cho sản phẩm hoặc số còn lại đưa
qua bàn kéo cho sợi bạc nhỏ hơn nữa. Sợi bạc nhỏ nhất có thể chỉ còn
khoảng 3mm. Những sợi bạc nhỏ, nghệ nhân sẽ se, tết lại
với nhau thành những sợi chỉ se bạc. Sợi chỉ se là nguyên liệu chính
tạo ra các hoa văn, họa tiết cho sản phẩm đậu bạc như bông hoa, các linh
vật... Mỗi nghệ nhân, tuỳ vào tay nghề của mình để ghép nhiều hoặc ít
hoa văn, họa tiết thành một sản phẩm đậu bạc thô. Để sản phẩm đậu bạc
hoàn thành, các nghệ nhân phải dùng dũa làm sạch, nhẵn bóng bề mặt… Trong những công đoạn trên, có thể nói khó
khăn lớn nhất là dựng hình gắn kết các hoa văn hoạ tiết tạo hình, chế
tác sản phẩm. Từ khi làm những sản phẩm đơn giản, một nghệ nhân có thể
phải mất cả chục năm nữa mới chế tác được sản phẩm tinh xảo...Lắm nỗi gian nan Trao đổi với Phóng viên Báo Người Hà Nội,
ông Nguyễn Văn Tuyến- Chủ tịch UBND phường Định Công cũng cho biết: Hiện
nay, cả phường có khoảng 4 vạn dân thì có tới 3 vạn dân là người có gia
đình gốc ở địa phương. Số dân còn lại khoảng 1 vạn dân là những hộ gia
đình sống trong khu đô thị mới. Những hộ gia đình sinh sống trong khu đô
thị mới hầu hết là do người từ nơi khác nhập về. Phường Định Công trước kia là một xã thuộc
huyện Thanh Trì, mới nên phường thuộc quận Hoàng Mai được mấy năm. Người
dân trên địa bàn phường Định Công từ bao đời nay vẫn sinh sống bằng
những nghề truyền thống. Vào đầu thế kỷ XIX cả làng có khoảng 50-60% gia
đình giữ nghề. Tuy nhiên, khi bước vào nền kinh tế mở cửa các gia đình
lần lượt bỏ nghề làm việc khác. Đến nay, làng nghề chỉ còn gia đình nhà
ông Trường và ông Hiểu đang gìn giữ, phát triển nghề.Nghệ nhân Quách Văn Trường Mặc dù người lưu giữ nghề vốn đã ít là vậy
nhưng, việc phát triển nghề vẫn đang còn lắm gian nan. Tuấn Anh cho
biết, ban đầu mới theo nghề, anh chỉ nghĩ làng có thế mạnh nghề nổi
tiếng mà quá ít người theo học. Đến khi tôi đi kêu gọi được một số người
học nghề rồi nhưng, bài toán nan giải đặt ra trước mắt là làm sao có
đầu ra cho sản phẩm. Có đầu ra cho sản phẩm, học viên có thu nhập cao
mới thôi thúc họ yêu nghề và theo nghề trọn vẹn… Nhà tôi có 3 thợ sản xuất là những người
con tâm huyết trong làng tuổi đời dưới 30 và 3 thợ gia công làm thêm.
Những thợ gia công cũng được đào tạo từ nhà ông Trường đã thành thạo ra
mở cửa hàng riêng. Để đào tạo ra một thợ có thể tự đứng làm riêng rất
khó khăn, chủ yếu phụ thuộc vào chính bản thân họ. Ngoài năng lực nghề,
thợ kim hoàn cần phải có khả năng kinh doanh, nắm thị hiếu, tâm lý khách
hàng, tạo thương hiệu... Nếu không bán được sản phẩm thì các nghệ nhân
dù yêu nghề đến mấy cũng chán nản mà từ bỏ.Tuấn Anh đang hướng dẫn các học viên tại cơ sở đào tạo tại gia đình Hơn nữa, mặc dù thị trường trong nước có
nhu cầu nhiều nhưng, do đặc thù nghề thủ công, sản xuất đơn chiếc nên
tính hiệu quả không cao. Đã vậy, lại không dễ gì tăng giá sản phẩm bởi
khách hàng biết đến sản phẩm đậu bạc ở nước ta rất ít; thậm chí nhiều
khách hàng trong nước còn lầm tưởng đậu bạc là chạm bạc. Trong khi chạm
bạc sử dụng nhiều đến các công cụ như đục, dũa… thì đậu bạc đòi hỏi tính
tinh xảo, tỷ mỉ hơn nhiều… Sản phẩm của gia đình ông từ lâu đã được
xuất ngoại. Khách hàng đến với sản phẩm của cơ sở nhà ông Trường ông
Hiểu hầu hết là người nước ngoài. Từ tháng 6- 7/2007, gia đình ông Trường
được mời sang Hàn Quốc 1 tháng và gia đình ông Hiểu được mời sang Pháp 1
tuần giới thiệu sản phẩm. Để phát triển nghề, Tuấn Anh cho rằng, chúng
ta cần tuyên truyền nhiều hơn nữa để khách hiểu biết, tin tưởng nhiều
hơn chất lượng sản phẩm đậu bạc. Đặc biệt, làng nghề cần được các cơ
quan chức năng quan tâm hơn nữa. Vì hiện nay, hai gia đình ở làng đang
giữ nghề nhưng đều mang tính tự phát…theo vietbao.vn