NDĐT- Tinh hoa chất chứa trong con người nghệ nhân đã đưa
ông đến trình độ xuất thần, để hễ chạm vào bất kỳ cây đàn đáy nào cũng hiện ra
hồn cốt ca trù và cả cái thần cổ nhạc tinh túy. Ông là Nguyễn Phú Đẹ - danh cầm
đàn đáy còn sót lại của thế kỷ trước.
Ông Đẹ và
nghệ nhân Hà Thị Cầu.
Đến
thăm ông vào một buổi chiều muộn. Chập tối, cái nhập nhoạng, ủ rũ của miền quê
những tưởng được thể tràn về, song tiếng đàn văng vẳng đâu đây lại khiến lòng
người ấm lại. Hóa ra, nhấp hớp trà tráng miệng sau bữa cơm chiều, ông lại lần
dở cây đàn đáy, gẩy vài đoạn thân thương để nhớ về một chút xa xưa hoài niệm
trong quá khứ. Tiếc nuối về những cây đàn đã mất, nhưng ông có biết đâu, chính
mình đã là hóa thân thành một cây đàn.
Ông
Đẹ nay đã gần 90 tuổi. Cái ngưỡng “thất thập cổ lai hy” ghi dấu thời gian bởi
vẻ còm cõi và khuôn mặt hóp sâu vì sương gió. Nhưng đừng để vẻ bề ngoài đó đánh
lừa, bởi ánh mắt ông luôn toát lên sự vui tươi, yêu đời đến lạ. Còn đôi bàn tay
gầy guộc trông có vẻ yếu ớt kia, chỉ cần động vào đàn thôi là bao nhiêu hứng thú
của tuổi thanh xuân bỗng quay trở về khiến nó trở nên linh hoạt khác thường.
Thật
lạ! Thần thái của ông khiến tôi nhớ ngay đến nghệ nhân hát xẩm Hà Thị Cầu.
Khuôn mặt bà nhăn nheo tưởng như héo hắt, ấy mà lúc nào gặp khách đến chơi hợp
chuyện là “nhả thơ” rôm rả liên hồi. Ông Đẹ ý tứ hơn bà Cầu. Còn nhớ ở lễ hội
đường phố đón Nữ hoàng Đan Mạch tại Hồ Gươm cách đây khá lâu, hai ông bà lại có
dịp hội ngộ. Người già cùng thế hệ, hợp nhau bởi tiếng đàn câu hát chẳng khác
nào bạn thân lâu ngày gặp mặt. Nếu bà Cầu chọc ông bằng những lời đúng chất
“xẩm” đến là mộc mạc, thì ông đáp lại bà bằng những câu đùa ý nhị song chẳng kém
phần hóm hỉnh. Học trò của ông còn “chộp” được pô ảnh hai người nghệ nhân già
khoác tay nhau cười sung sướng trong thang máy khách sạn. Nhìn gương mặt già
nua nhưng đầy sức sống ấy, có ai biết đâu rằng, cuộc đời ông cũng trải qua lắm
nỗi gian truân, gắn chặt với những biến cố thăng trầm của nghệ thuật ca trù.
Tiếng tơ đồng thủa trước
“Nếu
nói là biết đến tiếng đàn thì tôi nhiễm từ trong bụng mẹ ý chứ. Bởi đi đâu cũng
nằm trong bụng mẹ nghe tiếng hát, tiếng đàn còn gì?”, ông Đẹ cười và đùa vui
vẻ. Nói là vậy, chứ kỳ thực, mười hai tuổi ông mới được cha cho động đến cây
đàn. Ngày ấy, ban ngày cậu bé Đẹ tha hồ đi chơi đùa cùng chúng bạn, nhưng cứ
đến tối phải học đàn. Ở cái thuở niên thiếu nào ai đã biết gì, nhưng đó là cái
nghề của gia đình nên gắng mà theo. Những tiếng “tùng tếnh tùng tênh” gượng gạo
ban đầu, sau 3 năm rèn giũa đã trở nên sống động. Đó cũng là lúc cậu thiếu niên
Nguyễn Phú Đẹ được cha cho ứng thí ra nghề.
Hội
đền ca công trong làng năm ấy dường như vẫn còn vẹn nguyên trong tâm trí người
nghệ nhân già. Đào kép đi đâu đúng dịp đó cũng phải tụ về đền. Một là dự hội,
đóng góp tế lễ ăn uống, thứ nữa là để tổ chức khảo thí cho những đào, kép học
nghề được ra hát. Khi ấy, thí sinh phải có một cơi trầu, một hoặc vài ba hào
vào làm lễ thánh để xin phép rồi ngồi vào đàn hát trước một hội đồng gồm chủ
khảo, thủ khoán, xã khoán, thư ký…Qua được kỳ khảo thí này, đào kép mới được ra
nghề, không thì đành ngậm ngùi đợi đến năm sau.
Cây
đàn đáy chính thức trở thành cái nghiệp của ông từ ngày ấy. Thời gian đầu, ông cùng
gia đình đi hát ở các đình làng quanh vùng. Mỗi dịp tháng Chạp, tháng Giêng, cả
nhà phải cắt cử nhau đi các cửa đình. Hát từ lúc chập tối khi dân làng xúm đông
xúm đỏ đến giữa canh khuya, cho tới sáng, lúc cửa đình chỉ còn lác đác vài
người. Người ta thì chè chén, mình hát mệt thì nghỉ, cứ thế thay nhau làm.
Nghiệp cầm ca là vậy. Mang tiếng chẳng phải nhọc công đồng áng, nhưng khi vào
việc, chưa biết ai khổ hơn ai?
Ông
Đẹ kể, đàn đáy thời ông vẫn còn dùng dây tơ chứ không phải dây nilon như bây
giờ. Cả nhà ông có ba cây đàn, đều treo trang trọng trên cột khuôn. Nhưng mỗi
lần cả đoàn dắt díu cuốc bộ đi diễn ở tỉnh xa, cây đàn đáy lại được tháo ra
thành từng phần cho gọn. Thùng thì tay xách, cần thì vác trên vai. Những chuyến
đi dài đó chỉ là quãng đầu cho cuộc mưu sinh của người kép trẻ Nguyễn Phú Đẹ ở
chiếng xứ Đông thuở nào.
Vùng
Hải Dương, Hải Phòng đầu thế kỷ 20 vẫn là một mảnh đất màu mỡ của ca trù. Những
tay đàn trẻ như ông Đẹ thấy ai đàn hay thường mon men tiếp trà nước điếu đóm
cho đến khi học kỳ được ngón đàn mới thôi. Giới nghề cũng lắm ganh đua. Họ dùng
câu hát, tiếng đàn thay lời chào hỏi và cũng là để so tài khi hội ngộ. Ngón đàn
hóc hiểm gặp người hát vững thì chẳng mấy mà quí mến lẫn nhau.
Kỹ
thuật đàn đáy không quá khó, nhưng để thực hay thật lắm công phu. Tiếng đàn hay
được giới nghề là đàn “mỡ”, nghe chín nục ngấm sâu vào lòng người. Muốn vậy, kỹ
thuật nhất, chùn, rung, mổ….phải được luyện đến mức công phu. Ngón nhấn tạo âm
sắc mềm mại, ngón chùn khiến âm thanh thấp xuống, ngón rung tạo độ ngân cho tiếng
đàn khiến bài hát mềm đi và giàu tình cảm, ngón mổ tạo điểm nhấn có chút chấn
động giữa các sợi dây rung.
Ngày
ấy, ở Hải Phòng có đến 30 nhà hát mà chỉ có hơn mười kép đàn, còn cô đầu chỉ
dăm bảy người hát được. Vì thế, kép đàn “mảnh” như ông Đẹ chẳng mấy khi hết
việc. Người ta gọi thì mình đi đàn, cứ chạy hết nhà này đến nhà khác. Nhà hát ăn
hai đồng thì kép đàn được 5 hào, đào kép nếu được thướng riêng thì tự hưởng.
Những bận đàn khuya mãi đến đêm mới ra phố, ông vẫn gặp nghệ nhân Kim Sinh đi
làm về. Thuở ấy, nghệ nhân Kim Sinh cũng từng bôn ba xuống tận Hải Phòng để đàn
hát kiếm ăn. Anh em cùng cảnh nên biết nhau cả. “Ngày ấy tôi sống bạt tử. Cứ
đàn ở đâu thì đó là nhà”, ông Đẹ tủm tỉm nhớ về một thời xa vắng.
Tơ đàn dẫu đứt…
Bước
ngoặt của lịch sử trong những ngày khởi nghĩa cũng đánh dấu ngã rẽ lớn của các
đào kép. Mang tiếng “ăn chơi” nên chẳng lạ gì khi đời sống ca trù rơi vào cảnh
tan đàn xẻ nghé. Thời cải cách ruộng đất, đào, kép dù tìm về cố hương kiếm kế
mưu sinh nhưng cũng chẳng thoát nổi ánh nhìn nghi ngờ, dò xét và cũng chẳng ít
lần bị quy là dân ăn bám. “Ông chú tôi biết chữ nho, dạy đàn, dạy hát, không có
lấy một sào ruộng trong tay thế mà họ qui kết là địa chủ. Về sau được sửa sai,
cụ chán đời bỏ đi tu ở vùng Cửa Ông rồi mất ở đấy”, ông Đẹ thở dài. Ngôi đền ca
công xưa cũng nát hết, chỉ còn lại mỗi mật khám và bộ đỉnh con con. Buồn lắm!
Còn
ít ruộng, đám con cái đào kép trong nhà đành gác lại đàn phách, tập quen với
cuốc cày. Với ông Đẹ, cuộc mưu sinh cùng cây đàn thôi đành gác lại. Đôi bàn tay
khéo léo vẫn thường nhấn nhá phím đàn, buộc phải trở nên thô ráp bởi những gian
truân trên thửa ruộng cày.
Thời
gian như cơn gió thoảng, ấy thế mà đã 50 năm dứt nghiệp cầm ca. Những tưởng tiếng
đàn xưa đã trôi vào quên lãng, ngờ đâu ông lại có dịp trở về với những giai
điệu thân thương thuở trước. Năm 1995, huyện Tứ Kỳ (Hải Dương) lên kế hoạch tìm
các cụ cao niên còn lưu chút vốn cổ ca trù. Thật may, vẫn còn một cụ bà ngày
xưa đi phục vụ ở quán hát phố Khâm Thiên và ông Đẹ. Từng ấy năm trôi qua, đàn
phách chẳng còn. Nghiệp cầm ca đứt quãng, giờ đành bắt tay làm lại từ đầu.
Cây
đàn đáy đầu tiên ông có được sau từng ấy quên lãng cũng thật giản dị. Huyện cho
ông 100 nghìn đi đóng đàn, nhưng dùng hết 80 chục thôi, vẫn còn thừa hai chục.
Ông Đẹ kể mình phải mất ba ngày liền ngồi hướng dẫn người thợ mộc từng chi tiết
cây đàn. Đàn đáy xưa phải làm bằng gỗ cây ngô đồng, nhưng cây này đành làm bằng
gỗ dán. Thợ mộc nào phải người chuyên làm đàn nên dù vẫn hình dạng ấy, âm thanh
phát ra không sao hay được.
Vốn
cổ trong ông ngủ yên trong chừng ấy năm chợt thức dậy. Ngón tay động lại vào
đàn sao lạc lõng quá. Lúc đầu ông cũng hoảng và bỡ ngỡ như người mới làm quen
với ca trù. Nhưng càng luyện càng ngấm, các ngón đàn mới dần dần hiện ra. Cứ
mỗi lần động vào đàn, ông lại nhớ ra chút ít, gân đàn hồi lại, tiếng nghe cũng
nắn nót như xưa. “Cây đàn thợ mộc” đã đồng hành cùng ông suốt mười năm cho đến
lúc ông có được một cây đàn đáy thực thụ vào năm 2005. Đó cũng là lúc những
ngón nghề xưa cũ đã thực sự hồi sinh.
Tiếng
lành về một nghệ nhân đàn đáy cao niên còn sót lại vang xa đến đất Hà thành. Từ
những buổi biểu diễn tại địa phương, ông đã được các đào nương Hà Nội mời về
biểu diễn. Nghệ sĩ Bạch Vân, những nghệ sĩ của nhóm ca trù Thái Hà đều đã từng
gặp ông học hỏi. Năm 2005, ông Đẹ giành được huy chương vàng “Liên hoan ca trù
toàn quốc” và năm 2006, ông chính thức được Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam
phong tặng là Nghệ nhân dân gian. Đây cũng là năm ông và nghệ nhân Nguyễn Thị
Chúc cùng học trò Phạm Thị Huệ thành lập câu lạc bộ Ca trù Thăng Long.
Người
đến xin học đàn của ông cũng ngót nghét con số 30, nhưng có lẽ theo được đến cùng
chỉ có một đôi người. Giờ, người học trò mà ông ưng ý nhất là kép đàn Phạm Đình
Hoằng. Bởi hiếm có người nào lại theo ông lâu như vậy. Suốt từ năm 2006 đến
nay, hai thầy trò vẫn đều đặn gặp nhau trong những buổi học đàn. “Quả thực, ở
tuổi này tôi không tiếc gì nữa ngoài các ngón đàn bao công rèn luyện. Nhưng may
mắn quá, tiếng đàn giờ đã chọn được người có tâm để mình trao gửi. Giờ chỉ cần
luyện cho chín nục, gân đàn vững, lưu loát nữa thôi. Rồi thời gian sẽ trả lời.
Còn với tôi, âu đó cũng là một điều mãn nguyện”, đôi mắt ông hấp háy một chút
vui tươi.
Quả
vậy, người có tâm với cổ nhạc bây giờ hiếm lắm! Người ta đi học đàn của ông có
khi chỉ được vài ngày là bỏ. Có người ở xa tìm đến trụ được dăm buổi rồi đành
cáo lui, nhưng khi về cũng tự nhận là học trò nghệ nhân. Học đàn vài bữa nửa
tháng thì được mỗi mấy ngón đàn, chứ muốn thành nghề phải chịu khó rèn rũa 3,4
năm mới gọi là tạm ổn.
Giờ
người theo học ít hơn, ông lại mở lớp dạy đàn miễn phí cho con cháu trong làng.
Ông bảo, ở Hà Nội học đàn còn biểu diễn nọ kia kiếm tí chút, chứ nhà quê hát
cho ai nghe mà đàn cho ai nghe, thành ra bọn trẻ không ham lắm. Ấy thế mà trong
làng vẫn tụ đủ dăm cháu thỉnh thoảng lại đến chơi với ông rồi học mót tý món
nghề.
Sau
bao năm xa cách, giờ cây đàn đã trở về với người nghệ sĩ xưa. Ngắm ông khoan
thai nhấn nhá từng phím, lòng sao nhẹ bẫng. Cổ nhạc Việt Nam thật lạ,
tựa như gừng càng già càng cay. Cũng như tiếng hát của ả đào, tiếng đàn chín
nục, khi khoan, khi nhặt, lúc lưu loát, lúc lại gằn gọc thế kia chỉ có thể do
đôi bàn tay của người nghệ nhân đã trải cả đời mình cùng tiếng tơ đồng.
Biết
tuổi già là héo hắt, nhưng ông Đẹ vẫn tự cho mình còn may mắn lắm khi đôi tay
nắn phím đàn vẫn tốt. Đừng bảo thời gian trôi sẽ cuốn đi tất cả. Sau 50 năm,
tình yêu xưa cũ trở về vào những tháng xuân tàn đã giúp hoa kia tươi trở lại,
tựa như bài thơ “Thỏa nỗi ước mong” ông đã làm để tặng chính mình:
Bao năm ôm ấp tiếng tơ đồng
Ngày ngóng, đêm mong vẫn lạnh lùng
Giờ đây gió mới hoa đua nở
Thỏa nguyện lòng ta những ước mong
Giá gì tuổi mình còn xuân nhỉ?
Vui với ngày xuân tận hưởng xuân…
Theo nhân dân