Bè rớ là một loại nghề của ngư dân có từ rất lâu, hoạt động ở vùng sông
lạch gần biển. Lênh đênh trên sông nước với cụm từ "giang khê vi
nghiệp".
Bè
rớ gồm bè và rớ. Bè được làm bằng tre tươi dài nguyên cây, thường là tre nang
già. Mỗi bè được xếp từ bốn đến năm lớp tre, rộng độ ba mét. Người ta dùng tre
cây đã trảy sạch mắt, xếp sát nhau thành lớp, chia khoảng đều và đặt bốn đến
năm đà ngang rồi buộc chặt tre vào đà bằng dây rừng, lạt cật hay cước sợi lớn.
Cứ thế người ta xếp tiếp các lớp khác, lớp trên cùng toàn tre thẳng tạo nên bề mặt
tương đối phẳng, là chỗ sinh hoạt gia đình, hoạt động nghề nghiệp. Nửa bè phía
gốc người ta dựng một sườn khoang như khoang thuyền, và phủ kín bên ngoài bằng
tấm nang tre đan kín, trát dầu rái để che mưa nắng, về sau họ thay tấm nang
bằng tôn kẽm.
Quê hương miền sông nước.
Khoang
bè không thể lớn được, chỉ tạm đủ cho một gia đình vợ chồng và con cái ăn ở.
Sau khoang là sân nhỏ dùng cho sinh hoạt hằng ngày, nấu ăn, chăn nuôi,… Còn
trước khoang là sân nghề, ngoài đầu mũi bè người ta đặt một giàn rớ. Giàn rớ
gồm hai cần tre dài, to bằng cổ chân người lớn, nhưng chắc chắn, liên kết cố
định hình chữ V một bên dài, một bên ngắn. Chỗ khớp hai cần được nối động với
một trục nằm ngang gắn chặt vào mặt bè. Cần dài vươn ra phía nước, người ta
dùng dây thật bền buộc vào đầu cần bốn gọng tre xếp chữ thập tạo nên hai cánh
cung chéo nhau ở giữa, mỗi gọng là một cây tre nhỏ, dài hơn năm mét. Đầu còn
lại của bốn gọng được buộc chắc vào bốn góc làm căng một tấm lưới vuông, cạnh
chừng sáu mét, lỗ lưới rộng cỡ một phân gọi là rớ. Cần ngắn hơn ở phía khoan có
tác dụng tạo lực đối trọng khi cất rớ. Mỗi cần còn được gia cố thêm vài cây tre
cho cứng cáp và làm nhiều bực thang để trèo lên hay lùi xuống dễ dàng.
Muốn đặt rớ xuống sông, người ta leo dần theo bực thang lên phía ngọn cần
dài để đè rớ cho chìm hẳn xuống đáy nước. Muốn cất rớ phải thêm người trong gia
đình trèo ngược lên phía đầu gọng ngắn, tạo lực đối trọng cho rớ cất nhanh lên
khỏi mặt nước, nếu không cá sẽ thoát ra ngoài. Do vậy, suốt thời gian làm nghề,
cả nhà vừa cất rớ vừa bắt cá, chung sức thật vui.
Hàng năm thời gian hoạt động nghề khá dài, thường bắt đầu từ cuối mùa đông khi
lũ lụt đã vơi dần, qua suốt những tháng nắng đến đầu mùa mưa năm sau, thịnh
nhất là vào những đêm tối trời và nước trong. Muốn nhử cá, người ta treo đèn
sáng rực giữa rớ ngay trên đầu gọng để cá thấy ánh sáng mà tụ đến. Mỗi mẻ rớ,
từ khi đặt xuống đáy nước đến khi cất lên chừng hơn mười phút.
Gặp lúc cá nhiều, cảnh cất rớ nô nức hẳn, họ chạy lên cần rớ dài phía sông rồi
lại chạy lên cần ngắn phía khoang, đều đều như thế, và cá được bắt vào đầy giỏ,
đó là phút giây hạnh phúc, no ấm của nghề sông nước. Đến cuối thu, khi mưa
nguồn về mạnh, nước đục sông, người ta lần lượt chèo bè đến những vùng sông
lạch bình yên để vừa hành nghề sinh nhai, vừa tránh bão lũ làm trôi bè; bởi bè
là sản nghiệp của họ như ruộng vườn của nhà nông. Hằng ngày, ngoài thời gian
đánh bắt, cả nhà nghỉ ngơi, sinh hoạt, vui chơi cũng trên chiếc bè. Xưa kia
cuộc sống ngư dân bè rớ có phần cách biệt với đất liền vì luôn di động trên
sông lạch, tìm chỗ cá nhiều để đánh bắt. Họ chỉ giao tiếp với cư dân trên bờ
vào những lúc đem cá đến chợ hay bán rong đường thôn xóm, và mua những thứ cần
thiết. Ở đâu cũng nhớ ông cha, trong khoang chỗ trang trọng nhất ngư dân bè rớ đặt
bàn thờ tổ tiên, ngoài khoang trên cao lại đặt một trang nhỏ thờ thần sông
nước, cũng là nét văn hóa tâm linh chung trong đời sống người Việt.
Ngày trước do cách sống "giang khê" nên trẻ con của ngư dân bè rớ
thiếu điều kiện học hành. Trong gia đình khi con cái đến tuổi trưởng thành, cha
mẹ dành dụm tiền của tạo một chiếc bè mới như chia của cho con, sau cưới hỏi là
tách riêng gia đình. Và họ thường tìm bạn đời nhau, cưới hỏi với người
trong bạn nghề để dễ hiểu, dễ sống. Rồi đất nước đổi thay phát triển, dần dần
ngư dân bè rớ cũng nhận ra cuộc đời nếu mãi lênh đênh trên sông lạch sẽ chịu
nhiều thua thiệt, con trẻ không được hòa nhập cùng chúng bạn,... Từ đó, họ rủ
nhau lên những triền sông lập xóm để vừa có điều kiện chung sống với cư dân đất
liền, vừa thuận tiện nghề sông nước. Những xóm ấy nay trở thành làng đông vui,
trai gái tự do lập gia đình với bạn đồng trương lứa của nhiều tầng lớp xã hội
trong cộng đồng cư dân nông thôn.
Đến nay, nghề bè rớ hầu như vắng bóng, người già đã qua đời, trẻ con trở thành
trai tráng, nhưng hình ảnh chiếc bè, cảnh gia đình cùng nhau cất rớ, ánh lửa
lập lòe trên sông, cuộc sống ngược xuôi theo dòng nước, rồi đến lúc phải lên bờ
định cư lập nghiệp mới,…. Tất cả những điều đó mãi là nét văn hóa đẹp chứa đựng
tình cảm quê hương vùng hạ lưu sông nước Quảng Ngãi.
Theo báo Quảng Ngãi