(Langngnghevietnam.vn) - Hiệp hội làng nghề Việt Nam
xin được đăng nguyên văn bài viết của GS Vũ Khiêu về “ Các bước thăng trầm và
thành công của làng nghề Việt Nam”
(Ảnh minh họa)
1. Làng là một tổ
chức cộng đồng có ý nghĩa vừa độc đáo, vừa tốt đẹp trong lịch sử phát triển của
dân tộc Việt Nam.
Làng Việt Nam là trung
tâm nối kết cộng đồng nhỏ là gia đình với cộng đồng lớn là Tổ Quốc, tạo nên một
thế vững chắc trong mối quan hệ giữa nhà, làng và nước. Sự thống nhất ấy đã khiến
cho cuộc sống gia đình gắn liền với tình làng nghĩa nước, khiến cho Tổ Quốc thông
qua làng xã mà gắn bó chặt chẽ với mỗi gia đình.
Khi Tổ Quốc gặp
thiên tai thì làng xã là nơi tập hợp sức mạnh của toàn thể thành viên các gia
đình trong cùng một lòng, một dạ, chiến đấu để bảo vệ Tổ Quốc. Tổ Quốc trở
thành một gia đình lớn để gắn kết mọi người và mỗi thành viên gia đình trở
thành công dân của gia đình lớn.
Chủ nghĩa yêu nước,
chủ nghĩa anh hùng, chủ nghĩa nhân đạo chính là những sản phẩm tinh thần của
tính cộng đồng làng xã mang lại cho dân tộc Việt Nam.
Làng Việt Nam luôn củng
cố tính cộng đồng đó và hình thành nên những nét đẹp của văn hóa làng xã.
Làng xã xây dựng
thuần phong mỹ tục trong quan hệ giữa người và người. Và ghi lại điều ấy trong
các bản hương ước.
Làng xã xây dựng
nhân cách và đạo đức cho cá nhân, tạo nên chủ nghĩa anh hùng trong đạo đức và
chiến đấu. Làng xóm tôn thờ những người có công với nước , với làng. Làng là
cái nôi phát triển giáo dục thông qua việc thầy dạy cho con em trong làng.
Có thể nói, làng xã
đem lại cho mỗi cá nhân cũng như cả cộng đồng những phẩm chất tốt đẹp nhất để
trở thành những con ngoan trong gia đình, trong làng, trong nước.
Nhưng hôm nay ta
thử hỏi? Vì sao những phẩm chất tốt đẹp ấy suốt bao nhiêu thế kỉ không đem lại
cho làng xã một cuộc sống phồn vinh và đầy đủ?
Vì sao truyền thống
làng xã đã nuôi dưỡng được những phẩm chất đẹp nhất về tinh thần lại khiến cho
làng xã không vượt qua được những thiếu thốn vật chất?
Trước hết phải nói
đến sự hạn chế của nền sản xuất nhỏ của Việt Nam trong một phương thức mang tính
sản xuất Châu Á. Đó là một nền sản xuất dựa trên cơ sở sự chiếm hữu công cộng
về ruộng đất. Làng xã làm nhiệm vụ quản lí
nhà nước, phân chia ruộng đất cho nông dân canh tác. Nông dân nộp một
phần hoa lợi cho nhà nước và cho xã. Với kiểu canh tác và phân phối lạc hậu kéo
dài hàng ngàn năm ấy, làng xã cũng như toàn thể đất nước sống trong tình trạng
trì trệ về kinh tế. Quyền lợi ích kỉ của nhà nước phong kiến, họ chỉ biết khai
thác và bóc lột nhân dân, không cần phải cải tiến kỹ thuật, phát triển công
thương nghiệp. Trong hoàn cảnh này, Nho giáo, hệ tư tưởng của xã hội phong kiến
Châu Á lại ràng buộc người nông dân trong một xã hội mà Chủ tịch Hồ Chí Minh
gọi là xã hội ngàn năm không thay đổi. Đó là miếng đất để duy trì những tư
tưởng bảo thủ của Nho giáo về mặt kinh tế.
Trong tình hình nói
trên, chính truyền thống làng cũng đã biến tính tích cực của nó về mặt tinh
thần thành tính tiêu cực trong đời sống vật chất. Nhân dân vẫn gắn bó và yêu
thương lẫn nhau trong hoàn cảnh cam phận nghèo khổ. Họ đói rét có nhau, nhường
cơm sẻ áo cho nhau. Các nhà tri thức cũng chia sẻ sự thiếu thốn ấy bằng tư
tưởng an bần lạc đạo, tự an ủi mình bằng một cuộc sống thanh cao, lấy nước biếc
non xanh là bạn. Trong nhà, trong xóm, trong làng họ lấy việc sum họp trong
cộng đồng làm vui. Gặp ngày giỗ, ngày tết, ngày hội, họ tổ chức bữa ăn để chén
anh, chén chú thế là vui. Tính cộng đồng đã khiến cho những cuộc hội họp ấy là
niềm mong đợi của mọi người: Một miếng giữa làng hơn một sàng xô bếp.
2. Trong hoàn cảnh
thiếu thốn và cam phận nói trên, sự xuất hiện làng nghề như những điểm đột phá,
mở ra một chân trời mới cho làng xã Việt Nam. Trước hết làng nghề đã chọc
thủng bức thành trì của cuộc sống tự cung tự cấp trong gia đình và làng xã Việt
Nam,
như những bông hoa xuyên tuyết chọc thủng tuyết để vươn lên…
Tự túc tự cấp được
thực hiện ngay trong mọi gia đình. Gia đình tự cấy lúa ngoài đồng, nuôi gà, vịt
ở trong sân, thả cá dưới ao, trồng các loại rau trong vườn, mỗi thứ một chút
ít. Tự túc tự cấp trong làng xã thể hiện ở chỗ có thể tự cấp cho nhau những sản
phẩm của nghề rèn, nghề mộc, đan lát hoặc làm bánh, làm bún, bán cá, bán rau
cho nhau mà không cần mua sản phẩm của làng khác cũng như không cần phải bán
sản phẩm của mình ra khỏi làng.
Làng nghề đã vượt
lên trên những làng khác bằng những sản phẩm của mình với giá thành hạ và chất
lượng sản phẩm cao, hấp dẫn những khách hàng không chỉ ở trong làng mà còn ở
trong huyện trong tỉnh và cả trong toàn quốc.
Nguyễn Trãi trong
Dư địa chí đã giới thiệu cho nhà vua trẻ tuổi những hiểu biết về đất nước mà
nhà vua cai trị, trong đó có làng nghề Lê Qúy Đôn trong Phủ Biên Tạp Lục, Phan
Huy Chú trong Lịch Triều Hiến Chương loại chí cũng đều giới thiệu những làng
nghề nổi tiếng trong Nam và ngoài Bắc.
Có thể nói, sự xuất
hiện của làng nghề mà mầm mống là nền kinh tế thị trường, là triển vọng trên
con đường phồn vinh và giàu mạnh của đất nước. Tiếc rằng, rất nhiều rào cản đã
dựng lên qua các chặng đường của lịch sử trong sự phát triển của Việt Nam.
Tôi xin nói qua về
những rào cản ấy.
Chúng ta đều biết,
dưới thời Bắc thuộc cũng như dưới thời phong kiến bảo thủ, không những sản xuất
và buôn bán không thể thực hiện trong nhân dân mà những thợ giỏi luôn luôn bị
triều đình phong kiến trưng dụng để xây dựng cung điện cho nhà vua hoặc bị giặc
ngoại xâm bắt để đưa về nước họ. Tuy nhiên, trên con đường phát triển của đất
nước đã có những thời kì mà những làng nghề có chiều hướng phát triển. Có thể
nêu lên rất nhiều trường hợp bừng lên rồi lại vụt tắt của các làng nghề ở thời
Trần, thời Lê, thời Quang Trung. Cũng phải kể đến sự dập tắt của Hồ Qúy Ly của
những triều đại thời Lê, Trịnh, Nguyễn.
3. Triển vọng chưa
từng có của làng nghề Việt Nam
hôm nay.
Các làng nghề Việt Nam đang đi vào
thời đại của chính mình, thời đại thành công rực rỡ của họ, với những tài năng
vô tận của họ. Sự phát triển kì lạ của trí tuệ con người cùng những phát minh
ngày một nhanh chóng và phong phú của công nghệ đang vừa là thời cơ vừa là
thách thức đối với họ. Thuận lợi là ở chỗ họ khai thác được những thành tựu của
thời đại để rút ngắn được những quá trình vất vả của họ. Họ phải làm bằng tay
những công việc rất đơn giản mà máy móc có thể thay thế. Mặt khác, nếu các bạn
chỉ đơn thuần dựa vào máy móc hiện đại thì những máy móc này sẽ thay thế các
bạn và tiêu diệt các bạn. Vì thế, sự tồn
tại và phát triển của làng nghề trông
chờ ở chỗ nghệ nhân của làng nghề phải thự hiện được những việc mà máy móc dù
hiện đại mấy cũng không thể thay thế được các bạn. Đó là tài năng của các bạn,
là tâm hồn của các bạn, những phẩm chất tinh thần làng xã Việt Nam từ xa xưa
đã truyền từ đời này sang đời khác và dành riêng cho các bạn. Đó là một công
việc rất nghiêm túc đòi hỏi sự tìm tòi và sáng tạo vô tận ở các bạn. Chỉ với
điều kiện ấy, sản phẩm của các bạn không chỉ mang tính thực dụng có chất lượng
cao mà còn phải mang tính thẩm mĩ cao mang bản sắc Việt Nam và dấu ấn
tâm hồn nghệ sĩ của bản thân các bạn.
Tôi nghĩ rằng các
bạn đang chứng kiến một sự kiện đang diễn ra trước mắt các bạn: khối lượng
khủng khiếp của những sản phẩm công nghệ đang tiêu diệt hàng loạt những sản
phẩm thủ công mĩ nghệ trên thế giới nhưng lại khuất phục và nhường chỗ cho sự
lên ngôi của những sản phẩm mang tính chất lượng cao về mặt thẩm mĩ của những
nghệ sĩ có tài năng và tâm huyết trong làng nghề. Chính những sản phẩm vô giá
này của các bạn đang trở thành một nhu cầu ngày một khẩn thiết của xã hội văn
minh ngày nay.
Với tinh thần nói
trên, tôi đầy niềm tin tưởng vào tương lai của làng nghề Việt Nam.
Với tin tưởng rằng
với định hướng nói trên, nhất định các bạn sẽ tranh thủ được sự quan tâm đặc
biệt của nhà nước ta và đáp ứng sự mong đợi của nhân dân ta đối với những làng
nghề đang đạt được những thành công ngày một nổi bật vừa đem lại sự lớn mạnh
của làng nghề vừa góp phần vào sự phồn vinh của đất nước và niềm tự hào chung
của dân tộc.
GS. Vũ Khiêu