Văn hoá Chăm luôn
hấp dẫn các nhà nghiên cứu văn hoá. Những ai nghiên cứu về văn hoá Chăm
mà chưa đến làng nghề gốm Chăm Bàu Trúc coi như chưa hiểu về văn hoá
Chăm. Những năm gần đây, cùng với sự phát triển du lịch của tỉnh Ninh
Thuận, thôn Bàu Trúc đang được đầu tư xây dựng điểm đến trong các tour
du lịch.
Làng nghề cổ truyền và sản phẩm tiêu dùng
Theo các cụ già kể lại,
“Palei Hamu Trok” trước kia ở tại một cánh đồng ruộng trũng gần làng Bàu
Trúc bây giờ. Nhưng vào năm 1964 (năm Giáp Thìn) một trận lũ lụt lớn
xảy ra ở Phan Rang cuốn trôi tất cả nhà cửa, trâu bò… Người dân Bàu Trúc
lại dời làng “Palei Hamu Trok” đến định cư tại một gò đất cao, cạnh một
bàu nước gọi là Bàu Trúc ngày nay. Đã từ rất lâu, người ta vẫn gọi theo
cách gọi dân gian để chỉ làng gốm cồ truyền của người Chăm là thôn Bàu
Trúc. Trong thực tế địa danh Bàu Trúc chưa từng được dùng để ghi vào
giấy tờ hành chính nhà nước. Tên hành chính của làng Bàu Trúc này chính
thức là thôn Vĩnh Thuận có từ thời Minh Mạng. Từ thời Minh Mạng cho đến
năm 1954, thôn Vĩnh Thuận có lúc thuộc phủ Bình Thuận, Phủ Ninh Thuận,
đạo Phan Rang… Từ 1954 – 1975, thời Mỹ - Ngụy nền hành chính có sự thay
đổi thì thôn Vĩnh Thuận lại thuộc xã Phước Hậu (Phước Hữu), quận An
Phước, tỉnh Ninh Thuận. Từ năm 2000 đến nay, làng Bàu Trúc được quy
hoạch thành các khu phố thuộc thị trấn Phước Dân. Nhưng người dân ở Ninh
Thuận vẫn gọi là thôn (hay làng Bàu Trúc), người Chăm thì vẫn gọi là
Palei Hamu Trok hoặc Palei ngak gok (làng làm gốm) và người Bàu Trúc vẫn
bảo lưu nguyên vẹn nghề gốm cổ truyền từ ngàn xưa – được các nhà nghiên
cứu cho là làng gốm cổ xưa nhất Đông Nam Á.
|
Sản phẩm gốm Bàu Trúc đã mở rộng sang gốm trang trí. |
Làng gốm Bàu Trúc nằm
trong vùng lòng chảo được bao quanh bởi những dãy núi nên mùa mưa thường
gây ra lũ lụt và phù sa bồi tụ lâu năm tạo thành các lớp đất sâu ở
triền sông Quao. Chính nơi đây đã hình thành các mỏ đất sét mịn màng, có
độ dẻo cao. Bên dưới lòng sông Quao lại có những dải cát trắng hạt nhỏ -
những nguyên liệu cần thiết để tạo thành gốm Bàu Trúc mà không nơi nào
có được. Loại đất sét này khi nung rất dẻo và bền.
Các hoa văn trên sản phẩm
gốm được các nghệ nhân sử dụng đa phần là các loại que, cây, răng lược,
quả dại, hoa dại, vỏ sò, vỏ ốc có các hình đều nhau tạo nên. Do không có
bàn xoay nên độ tròn đều và tính mỹ thuật hoàn toàn phụ thuộc vào tài
năng, tâm hồn của nghệ nhân khi nặn gốm. Để làm tăng độ láng, người Chăm
không sử dụng men mà dùng vải nhúng nước để chà láng. Vì nung lộ thiên
bằng rơm, bằng củi trên một bãi trống, phụ thuộc vào độ nóng, độ gió và
chiều gió nên sản phẩm khi nung xong có độ chín không đều, chỗ đen đậm,
chỗ vàng. Tất cả tính nghệ thuật thủ công ấy đã tạo nên những sản phẩm
gốm có tính độc bản cao, không sản phẩm nào giống sản phẩm nào. Bằng kỹ
thuật thủ công hoàn toàn, gốm Bàu Trúc được ngợi ca như một sản phẩm “ấm
bàn tay con người nhất’’. Đó chính là yếu tố quan trọng nhất để nghề
làm gốm của người Chăm nổi tiếng và là cái đáng bảo tồn nhất.
Biết bao năm tồn tại, sản
phẩm làng gốm của người Chăm Bàu Trúc chủ yếu là sản phẩm gốm gia dụng.
Các loại gốm gia dụng như lu, thạp, nồi, niêu, siêu nấu thuốc nam, bếp
lò, chậu, khuôn đúc bánh căn, bánh xèo… cung cấp cho cộng đồng các dân
tộc quanh vùng, kể các một số tỉnh Tây Nguyên. Với sản phẩm thủ công, độ
nung thấp nên độ cứng bền của sản phẩm không cao. Hàng tiêu dùng nhôm,
nhựa ngày càng nhiều chủng loại nên đồ gốm tiêu dùng ngày càng khó tiêu
thụ. Đa số các hộ làm gốm đều nghèo. Nghề gốm dần trở thành nghề phụ.
Người dân Bàu Trúc phải đi sản xuất nông nghiệp như trồng lúa, chăn nuôi
gia súc.
|
Du khách trải nghiệm làm gốm Bàu Trúc. |
Bước phát triển làng nghề gốm mỹ nghệ
Hoạ sĩ Đàng Năng Thọ là
người con Chăm của thôn Bàu Trúc, là một trong những người đầu tiên sử
dụng chất liệu đất nung gốm để làm các tác phẩm mỹ thuật như tháp Chàm,
các loại tượng Chăm. Các tác phẩm tranh và tượng màu đất nung của anh đã
đạt nhiều giải thưởng mỹ thuật quốc gia và quốc tế. Năm 2001, họa sĩ
Sỹ Hoàng đã mở cuộc triển lãm hơn 800 sản phẩm gốm Chăm có tên “Điểm của
một thời” tại TP Hồ Chí Minh. Cuộc triển lãm tạo được tiếng vang lớn,
sản phẩm gốm mỹ nghệ, gốm trang trí của Bàu Trúc đã ra đời từ đó và
ngày càng phát triển. Làng nghề gốm Bàu Trúc từ đây đã thêm một nghề mới
- nghề thủ công mỹ nghệ gốm. Các loại tượng Chăm, bình hoa, bình phong
thuỷ, đèn trang trí ngoài trời… được sáng tác ngày càng nhiều. Một số
doanh nghiệp sản xuất gốm mỹ nghệ ra đời và đã có những chuyến hàng xuất
khẩu ra nước ngoài. Hợp tác xã gốm Bàu Trúc được thành lập. Thương hiệu
“Gốm Bàu Trúc” được xây dựng. Nhà nước đầu tư xây dựng nhà trưng bày và
tạo nhiều cơ chế chính sách để phát triển nghề làm gốm. Hàng năm Nhà
nước hỗ trợ cho các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất gốm tham gia các hội
chợ thương mại, hội chợ termar, hội chợ du lịch. Sản phẩm gốm mỹ nghệ
ngày càng được ưa chuộng và sức tiêu thụ ngày càng tăng. Tuy nhiên, với
một mặt hàng dễ vỡ, đòi hỏi rất công phu khi vận chuyển, mặc dù mẫu mã
ngày càng được cải tiến, một số sản phẩm được thu nhỏ, được làm chắc
chắn hơn, bền đẹp hơn nhưng việc tiêu thụ còn gặp nhiều khó khăn.
Những quan điểm về bảo tồn và phát triển.
Về lĩnh vực kinh tế, với
mong muốn tạo điều kiện để bà con phát triển có thu nhập ngày càng cao
bằng nghề làm gốm, các nhà quản lý ở Ninh Thuận đã đưa ra nhiều phương
án, đề án như đưa công cụ máy móc hiện đại vào các công đoạn sản xuất
gốm. Lò nung gốm đã được xây dựng, thậm chí đã trình đề án xây dựng
xưởng sản xuất gốm bằng công nghệ mới. Tuy nhiên, về lĩnh vực văn hoá,
với trách nhiệm bảo tồn nghề truyền thống, quan điểm hiện đại hoá nghề
làm gốm cổ truyền Bàu Trúc không được đồng tình. Bởi lẽ, nghề gốm Bàu
Trúc nổi tiếng bởi phương pháp thủ công, thô sơ, bởi tính độc bản của
sản phẩm gốm và gần đây là những sản phẩm gốm mỹ nghệ. Sản phẩm gốm tiêu
dùng ngày càng ít người sử dụng và rất khó tiêu thụ, khó có thể cạnh
tranh với các mặt hàng gốm sứ công nghiệp. Nên chăng là bảo tồn phương
pháp thủ công từ hàng nghìn năm trước mà cho đến nay, người dân Chăm Bàu
Trúc vẫn còn lưu giữ được. Sản phẩm gốm hiện nay tiêu thụ được chủ yếu
là các tác phẩm mỹ thuật với chất liệu là đất nung. Còn nếu đưa công
nghệ hiện đại vào thay thế phương pháp thủ công hay xây dựng nhà máy gốm
sứ công nghiệp ở một nơi khác bên ngoài làng nghề Bàu Trúc.
|
Nung gốm bằng rơm là nét riêng chỉ có ở gốm Bàu Trúc. |
Bộ Văn hoá, Thể thao và Du
lịch đã có Chương trình mục tiêu quốc gia về bảo tồn làng cổ. Ngành văn
hoá Ninh Thuận đã đưa làng nghề gốm Bàu Trúc vào danh mục làng cổ để
bảo tồn. Năm 2012, Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch đã đưa “Nghệ thuật
làm gốm của làng Bàu Trúc, huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận” vào 1
trong 12 di sản cần lập hồ sơ để đệ trình UNESCO công nhận là di sản cần
được bảo vệ khẩn cấp của nhân loại.
Thấy được giá trị của làng
nghề làm gốm cổ truyền của người Chăm thôn Bàu Trúc, Sở Văn hoá, Thể
thao và Du lịch tỉnh Ninh Thuận đã đưa thôn Bàu Trúc vào đề án xây dựng
điểm đến du lịch, xây dựng mô hình du lịch homestay ở đây. Nhà trưng
bày, trình diễn làm gốm được xây dựng. Hợp tác xã gốm Bàu Trúc được hình
thành, thương hiệu gốm Bàu Trúc đã được Cục Sở hữu trí tuệ cấp. Năm
2012, Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch tỉnh Ninh Thuận đã đầu tư xây dựng
đội văn nghệ dân gian Chăm thôn Bàu Trúc với sự tham gia của các nghệ
nhân Chăm trong thôn để phục vụ du khách. Khách du lịch đến thôn Bàu
Trúc ngày càng nhiều.
Kế hoạch Ngày hội VHTTDL vùng đồng bào dân tộc Chăm - Ninh Thuận 2012
(từ ngày 14 - 16/10/2012)
Ước tính
có khoảng gần 800 nghệ nhân, diễn viên, tuyên truyền viên, huấn luyện
viên và vận động viên là người dân tộc Chăm của 06 tỉnh, thành phố tham
gia các hoạt động tại Ngày hội: Ninh Thuận, Bình Thuận, Phú Yên, An
Giang, Tây Ninh và TP. Hồ Chí Minh. Ngoài ra còn có các tỉnh, thành phố:
Khánh Hòa, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi tham gia hội thảo, trưng bày,
giới thiệu di sản văn hóa Chăm.
Các hoạt
động trước Lễ khai mạc (từ ngày 12/10/2012): Hội chợ Thương mại gắn với
Lễ hội Ka Tê 2012; Liên hoan tuyên truyền, trưng bày, giới thiệu sách;
Chiếu phim tư liệu về văn hóa Chăm; Giới thiệu văn hóa ẩm thực; Triển
lãm - Giới thiệu “Đặc trưng văn hóa các dân tộc Việt Nam”; Triển lãm văn
hóa Chăm của các tỉnh, thành phố; Triển lãm ảnh “Cộng đồng các dân tộc
Việt Nam”; Trưng bày Mỹ thuật Chăm; Hội thảo “Bảo tồn và phát triển văn
hóa Chăm”; Thi đấu Thể thao.
Lễ khai
mạc Ngày hội: Có kịch bản riêng - Truyền hình trực tiếp trên VTV và NTV)
vào lúc 20g00 ngày 14/10/2012 tại Khu Di tích Tháp Po Klongirai;
Lễ hội Ka Tê từ 06h30 - 11h00 ngày 15/10/2012 tại Khu Di tích Tháp Po Klongirai;
Liên hoan
nghệ thuật và trình diễn trang phục dân tộc Chăm: Từ ngày 15 -
16/10/2012 tại Trung tâm Văn hóa tỉnh - đường 16 tháng 4.
Triển lãm
- Giới thiệu “Đặc trưng văn hóa các dân tộc Việt Nam”, Triển lãm văn
hóa Chăm của các tỉnh, thành phố, Triển lãm ảnh: “Cộng đồng các dân tộc
Việt Nam” từ ngày 14 - 16/10/2012.
Hội thảo “Bảo tồn, phát triển văn hóa Chăm” vào 8h00 ngày 16/10/2012;
Lễ bế mạc
Ngày hội: Từ 20g00 – 22g00 ngày 16/10/2012 tại Khu di tích Tháp Po
Klongirai; Liên hoan giã bạn ngay sau khi kết thúc lễ bế mạc tại Sân
khấu lễ bế mạc, tháp Chàm Po Klongirai.
|
Theo langvietonline