Làng
nghề nào cũng có quá trình biến đổi, phát triển và có những bước thăng
trầm, có lúc tưởng chừng bị “khai tử”. Nghệ nhân, người sáng tạo ra sản
phẩm làng nghề cũng dần vắng bóng. Số ít nghệ nhân cao tuổi còn lại, với
bàn tay tài hoa, lòng yêu nghề đã, đang và sẽ “thổi lửa” cho làng nghề
hồi sinh...
Có thể nói, những sản phẩm tinh hoa
của các nghệ nhân làng nghề là di sản văn hóa của dân tộc. Hiện nay, các
làng nghề truyền thống đang đứng trước thử thách lớn. Sản phẩm công
nghệ, máy móc dần lấn át, thay thế hàng loạt sản phẩm thủ công. Ðể vượt
qua thách thức đó, chỉ trông chờ vào tài năng của nghệ nhân. Sản phẩm
làng nghề muốn tồn tại và phát triển trong xã hội hiện đại thì không chỉ
bảo đảm chất lượng kĩ thuật, mà còn có giá trị thẩm mĩ cao, mang bản
sắc văn hóa Việt Nam và tâm hồn, trí tuệ của nghệ nhân, khẳng định chỗ
đứng của hàng thủ công.
Hàng trăm năm nay, Thanh Hóa nổi tiếng
với nghề đúc đồng Trà Đông, Thiệu Trung, Thiệu Hóa. Cha ông ta với bàn
tay tài hoa, khối óc sáng tạo đã biết chế tác trống đồng, biến nó thành
biểu tượng, báu vật truyền đời, linh thiêng của người dân Lạc Việt...
Thời gian trôi đi, nghề đúc đồng dần mai một, trong làng chỉ còn khoảng
20 gia đình làm nghề. Sau bao năm thất truyền, giờ đây các nghệ nhân
cùng nhau nhào đất, lập khuôn, nổi lửa nấu đồng, phục dựng nghề xưa. Cụ
Lê Minh Đức, 80 tuổi, nghệ nhân cao tuổi nhất trong làng trải lòng:
“Chúng tôi phải có trách nhiệm giữ gìn làng nghề truyền thống. Hằng
ngày, cha dạy con, ông dạy cháu. Để hoàn thành một chiếc trống rất mất
thời gian, công sức. Khó nhất là đúc mặt trống liền thân, hoa văn sinh
động, âm thanh phải trong trẻo, trầm hùng. Nghệ nhân đúc trống phải thổi
hồn vào sản phẩm. Hợp kim quyết định tiếng trống, nên chất lượng đồng
phải cao, không pha tạp... Nỗ lực của lớp nghệ nhân cao tuổi đã vực dậy
làng nghề, khẳng định thương hiệu, sản phẩm trên thị trường. Ngoài những
mặt hàng thờ cúng, trưng bày trong gia đình, chùa chiền, miếu mạo và
làm quà cho khách du lịch, làng Trà Đông còn đưa sản phẩm ra thị trường
thế giới. Gần đây, 50 chiếc trống đồng đã góp phần hồn thiêng sông núi
xứ Thanh vào Đại lễ 1000 năm Thăng Long - Hà Nội.
|
NCT xã Hoằng Đạt, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa truyền nghề cho lớp trẻ.
| Không chỉ những
sản phẩm thủ công như đúc đồng Trà Đông, rèn Tiến Lộc, chiếu Nga Sơn,
gốm làng Vồm… mà hương vị đặc biệt của những món ăn dân dã, sản vật quê
hương như nem chua, bánh tráng làng Chòm, chè lam Phú Quảng, bánh gai Tứ
Trụ, rượu Chi Nê Cầu Lộc… tạo nên nét riêng khó lẫn của xứ Thanh. Làng
Tứ Trụ, xã Thọ Diên, huyện Thọ Xuân, tuy nghèo nhưng thảo thơm hương vị
của thứ bánh gai mộc mạc. Theo các cụ cao niên, nghề làm bánh gai có
cách đây khoảng 100 năm. Trải qua bao thăng trầm và biến cố của lịch sử,
lớp lớp con cháu không ngừng tìm tòi, học hỏi và duy trì nghề đến ngày
nay. Cụ Nguyễn Văn Định, nhiều năm làm bánh gai gia truyền cho biết: “Để
làm ra chiếc bánh gai có vị đặc trưng riêng, các công đoạn thực hiện
rất công phu, đòi hỏi sự tỉ mỉ, cầu kì”. Gắn bó với nghề từ nhỏ, nay đã ở
tuổi gần đất xa trời nhưng cụ vẫn không thôi trăn trở để bánh gai quê
nhà được góp mặt không chỉ ở thị trường trong nước. Trước đây, con cháu
bỏ nghề vì cuộc sống mưu sinh, cụ và lớp người cao tuổi trong làng vẫn
miệt mài bám trụ, giữ nghề. Cuộc sống người dân dần khấm khá, không còn
phải bám làng, bám ruộng, nay người Tứ Trụ bám vào nghề truyền thống cha
ông để lại để làm giàu cho gia đình, quê hương.
Dù máy móc hiện đại đến đâu cũng phải
nhường bước trước đôi bàn tay tài hoa, óc thẩm mĩ và tâm hồn các nghệ
nhân, thợ thủ công. Chính vì vậy, nhu cầu về sản phẩm thủ công tinh hoa
có hồn cốt vẫn không ngừng tăng. Sự phát triển rộng rãi của làng nghề
hôm nay, ngoài nỗ lực của chính quyền, còn có công không nhỏ của các lão
nghệ nhân. Tuổi càng cao, ý chí quyết tâm của họ càng lớn, và đặc biệt,
tâm huyết của họ với những gì cha ông để lại như ngọn lửa âm ỉ cháy,
thôi thúc con cháu quay lại với giá trị truyền thống, góp phần làm nên
giá trị văn hóa làng nghề Việt Nam.
Theo người cao tuổi
|