Câu lạc bộ Then - Thơ - Ca Bình Liêu, Quảng Ninh và CLB Then
xã Tình Húc là hai trong số những điểm đỏ lưu giữ điệu then đẹp ở vùng Đông
Bắc. Những thành viên của Câu lạc bộ này đều đã ngoài 40 tuổi. Có cả những cụ
già đã 70 tuổi, vẫn hàng ngày say sưa với những điệu then mượt mà. Mỗi câu lạc
bộ có khoảng hơn 20 thành viên hoạt động thường xuyên, tích cực. Điệu then mang
dấu ấn của vùng Đông Bắc còn giữ được và phát triển nhờ rất nhiều vào sự nhiệt
tình của họ.
|
Câu lạc bộ Then Bình
Liêu.
|
Đến Bình Liêu bây giờ vẫn có thể bắt gặp tiếng đàn tính,
tiếng then của các bà, các chị ở các thôn, bản người Tày. Tiếng đàn tính tô
điểm vào đất trời vùng cao ở huyện miền núi Bình Liêu bằng những âm thanh êm
dịu, thanh thoát của điệu then mượt mà.
Truyền
thuyết của người Tày kể rằng: “Cây đàn tính có 12 dây, mỗi khi tiếng đàn tính cất
lên, cỏ cây, muông thú, vạn vật trên thế gian đều bị mê hoặc. Đến cả thần tiên trên
trời cũng bị mê tiếng đàn mà trở nên lười nhác, bê trễ công việc. Thấy sự nguy
hiểm của cây đàn, Ngọc Hoàng bèn sai tước đi 10 dây, chỉ để lại 2 dây như bây
giờ”. Nhưng không vì thế mà đàn mất đi sức hút với con người. Hát then không có
đàn tính cũng chẳng khác nào bữa cơm thiếu muối. Và hát then không có đàn tính,
điệu then của người Tày không thể bay cao, vang xa. Chỉ có đàn tính mới có thể
đệm cho hát then.
Không
khó để chúng tôi tìm đến được Trường Trung học cơ sở Hoành Mô, một xã biên giới
sát cửa khẩu Hoành Mô, Bình Liêu tìm gặp được thầy giáo Hiệu, người được bà con
địa phương vẫn quen gọi là “Thầy then”.
Vùng
quê này núi non hiểm trở, đi lại khó khăn nhưng dường như không ai là không biết
tới thầy Hiệu. Từ lâu, bà con nơi đây đã coi thầy giáo Hiệu như một thành viên
trong gia đình của mình. Quý thầy như tấm lòng của núi rừng, với con chim muông.
Thầy Hiệu nhận được những tình cảm đáng trân trọng đó, bởi thầy là một trong số
ít người trẻ, còn giữ được những làn điệu, những câu hát then của đồng bào dân
tộc Tày, huyện Bình Liêu. Không chỉ gìn giữ nó, thầy còn phát triển và truyền
thụ lại điệu hát then cho chính những học sinh của mình cùng bà con miền núi
nơi đây.
Thầy
tâm sự với chúng tôi, có lẽ là từ trong bụng mẹ, đã được nghe những làn điệu hát
then. Sau này, lớn dần bằng dòng sữa mẹ và bằng những làn điệu hát then. Niềm
đam mê then dường như đã ngấm vào máu, vào tâm hồn của thầy.
Thầy
Hiệu đã không quản ngại gian khó, góp sức nhỏ bé của mình để bảo tồn và phát triển
giá trị văn hóa của dân tộc. Thầy sẵn sàng hát khi xã hay huyện có đề nghị ở
các chương trình văn nghệ quần chúng. Nặng duyên với những điệu hát then, thầy
đã theo đội Thông tin lưu động của huyện đi hát ở rất nhiều bản xa xôi.
Đội
văn nghệ mỗi khi rảnh rỗi là họp nhau lại, để được thầy dạy cho nghệ thuật hát then
và cách chơi đàn tính, một nhạc cụ không thể thiếu khi hát then. Mọi người đưa
đàn cho thầy, ngón tay thầy nhẹ nhàng lướt trên cần đàn, hai dây tơ mảnh dẻ mà
âm thanh phát ra dặt dìu, mê đắm.
Thầy
Hiệu rất muốn có thêm nhiều bạn trẻ biết hát then, chơi đàn tính. Thầy rất muốn
truyền tình yêu và lòng say mê hát then của dân tộc Tày tới nhiều người. Nghe thầy
cùng với đội văn nghệ hòa nhịp trong làn điệu then, chúng tôi cảm nhận được tâm
tình của lòng người, nghe được tiếng rừng, tiếng suối hòa quyện trong từng lời
ca, tiếng đàn.
Hát
then là một món ăn tinh thần của người Tày, nhưng hiện nay, món ăn tinh thần này
đang dần mai một bởi áp lực của cuộc sống mưu sinh. Lớp trẻ hiện nay chẳng mấy
người thích hát then, yêu then. Nhưng theo các nghệ nhân, muốn lớp trẻ yêu mến
và tìm đến học hát then, phải cho họ hiểu được giá trị quý báu của loại hình
nghệ thuật này, để họ thấy được trách nhiệm với nền văn hóa của dân tộc mình.
Then
gắn với đời sống tâm linh và tín ngưỡng của người Tày, góp phần làm nên bản sắc
văn hóa của cộng đồng Tày. Hát then, đàn tính không chỉ là linh hồn cho các lễ nghi,
hội hè, mà còn được ngân lên ngay trong sinh hoạt, lao động hàng ngày. Tiếng
đàn tính vang vọng, lời then ngọt ngào nồng ấm, là món ăn tinh thần hơn tất
thảy các món ăn tinh thần khác.
Theo
quan niệm dân gian, then có nghĩa là thiên, thiên tức là “trời”, được coi là điệu
hát của thần tiên truyền lại. Chính vì thế, trong đời sống của người Tày cổ, nó
được dùng trong những sự kiện trọng đại, hay lễ cầu an, cầu mùa, gọi hồn...
Đồng bào Tày cho rằng, có ba tầng trời, mỗi tầng đều có người sinh sống. Họ tin
khi tiếng đàn tính, cùng lời then cất lên là lúc các bà then đang bắt đầu cuộc
hành trình với từng đường then dẫn quan quân đi khắp ba tầng trời và những điệu
then giúp gửi lời cầu khấn đến nhà trời.
Trong
then có nhiều đường then như: Pang Khoăn, Thống Đẳm, Cấp Sắc hay Cầu Hoa... Về dạng
then cũng phong phú không kém, trong mỗi dạng lại có nhiều điệu hát khác nhau
ví như: Then cúng lễ; then chữa bệnh; cầu con cái; then vào nhà mới, đám cưới...
Các khúc then được tạo nên một cách có hệ thống, bài bản theo trình tự nội dung
trình diễn.
Hát
then thường được trình diễn chủ yếu trong một không gian nhỏ hẹp như trong nhà.
Tuy nhiên, đôi khi cũng được trình diễn trong một không gian rộng như ngoài cánh
đồng, ở Lễ hội Lồng tồng vào dịp giêng hai. Nhưng để điệu hát then phát triển
đến ngày hôm nay, một phần lớn nhờ công của những người đã gìn giữ, thổi hồn
vào điệu hát then độc đáo này.
Theo biên phòng