Thời
đại đồ đồng tính từ thời đại đồng Đông Sơn, Ngọc Lũ ở Việt Nam cũng có
đến 3-4 nghìn năm. Người Việt lúc bấy giờ còn sinh hoạt quần cư dưới
hình thức các bộ lạc sống rải rác ở phía Bắc. Chiếc trống đồng được xem
như của báu của cộng đồng. Các bộ lạc giàu có thì có khoảng một đến vài
chiếc trống do kỹ thuật đúc trống đồng tương đối khó và sự khan hiếm của
kim loại. Trống đồng, được xem là biểu trưng sức mạnh và sự giàu có của
các bộ lạc.
Trong
các cuộc giao chiến lúc bấy giờ, chiến lợi phẩm được xem là có giá trị
nhất vẫn là những chiếc trống và đồ vật bằng kim khí (đồng vẫn là có giá
trị hơn cả). Trải qua hàng ngàn năm, những cổ vật này lại được tìm thấy
như một minh chứng cho sự phát triển đỉnh cao của một giai đoạn phát
triển nền văn minh con người.
Trống đồng là một trong những cổ vật bị đúc giả nhiều nhất
Tính
ra từ thời đại Hùng Vương cho đến Hai Bà Trưng, suốt 3.000 năm đổ lại
thì dân cư Đại Việt cũng chỉ mới dừng lại ở con số mấy vạn người. Các bộ
lạc cũng chỉ tính đến con số hàng chục. Vậy mà nếu cộng tất cả các
trống đồng ở các viện bảo tàng có được ở thời điểm hiện tại cũng đã lên
tới con số hàng trăm, đấy là chưa tính ở các bảo tàng tư nhân. Nói một
cách hài hước, mỗi người dân ở thời đại Hùng Vương có tới vài chiếc
trống đồng (?). Chỉ cần suy luận một cách đơn giản cũng có thể thấy được
phần trăm những chiếc trống đồng hiện có là đồ thật rất thấp.
Những
cổ vật bằng đồng trên thế giới thường được gọi là đồng nổi còn ở Việt
Nam chủ yếu là đồng mục. Có sự khác nhau về cách gọi như thế này là bởi
phương thức cất giữ và phát hiện ra cổ vật. Đồng nổi là thuật ngữ chỉ
những đồ đồng được cất giấu, lưu giữ trong các bảo tàng, các hang động,
các kho đồ tư nhân được chăm sóc, bảo tồn tốt, qua hàng trăm năm vẫn
không bị phong hóa, sùi, mòn. Đồ đồng ở Việt Nam thường được tìm thấy
trong lòng đất, do quá trình cất giấu hoặc thay đổi địa chấn, khi tìm
thấy thường ít nhiều đã bị phân hủy, phong hóa, người chơi đồ cổ quý một
phần cũng là do sự hoài cổ. Chính do điều này đã tạo nên cơ hội để cho
những gian thương tìm cách móc ngoặc, đánh lừa người mua.
Theo
một nguồn tin cho biết, hiện tượng đúc giả trống đồng đã có cách đây
hàng chục năm, cho đến giờ vẫn còn tiếp diễn và ngày càng tinh vi hơn.
Nhiều người do nắm được kĩ thuật và đầu tư đã trở nên giàu có ở các địa
phương nổi tiếng về trống đồng như Hòa Bình, Thanh Hóa… Kỹ nghệ này bắt
đầu từ việc thu mua đồng mục ở các địa phương. Khi đào được những chậu,
xanh, lọ bằng đồ đồng trong đất, người dân thường bán rẻ cho nhưng lái
buôn. Sau khi phân loại, họ sẽ chia ra và bán thành phẩm tùy theo mức độ
bị phong hóa của đồ vật. Với những đồ đồng đã bị phân hóa cao, không
còn giữ được hình dáng và chất lượng cũng như mất giá trị trưng bày, một
bộ phận sẽ bị gom lại, đem về nghiền thành bột bằng những máy móc công
cụ cao. Với những chiếc khuôn được thiết kế tinh vi, mô phỏng nguyên bản
chiếc trống đồng, người ta sẽ dùng những chiếc máy dập thủy lực hàng
chục tấn để ép cho bột đồng thành khuôn. Với lực ép này, đến bột cũng
trở nên cứng như kim loại, huống gì đồng?.
Điểm
đặc biệt của công nghệ này là vẫn giữ nguyên được thành phần các-bon
trong kim loại, có ô xít đồng sử dụng cùng thuốc chuyên đánh đồng, khi
lên thì đồ vật có vân xanh giống hệt đồ cổ. Nếu bán ra nước ngoài thì
vẫn đúng tiêu chuẩn của cổ vật nhưng chỉ cần có va chạm mạnh thì những
chiếc trống này sẽ lập tức bị nứt vỡ. Trống giả, khi đốt lên thì có mùi
hơi khét của keo hóa học. Những đồ này chỉ có thể xem là tiêu bản trống
đồng. Với những người không có kiến thức chuyên sâu, chỉ mua vì sự mến
mộ, yêu thích rất dễ bị đánh lừa. Mỗi chiếc trống đồng giả bán ra có giá
hàng trăm triệu cho đến tiền tỷ, lợi nhuận như thế đã trở thành sự hấp
dẫn không cưỡng nổi đối với gian thương. Khi có sự móc ngoặc cùng với
những chuyên gia tư vấn, những chiếc trống đồng giả vẫn nghiễm nhiên có
mặt trong các bộ sưu tập tư nhân mà chủ bộ sưu tập vẫn đinh ninh đang có
trong tay cả một gia tài. Thực chất, cái họ có chỉ là đồ giả.
T.N