Xưởng mài
chân bàn và tủ của gia đình ông Út Dũng ở xã Long Giang, huyện Chợ Mới.
Ðó là một làng nghề ra đời từ việc tận dụng gỗ vụn để đóng thành những
bộ lư hương thờ phụng, lọng trang trí khung cửa, trấn phòng, bao lam,... chủ
yếu phục vụ người nghèo. Theo thăng trầm thời gian và nhu cầu xã hội, những
nghệ nhân ngày nào nay chuyển sang nghề mộc gia dụng. Vậy nhưng, làng nghề ở xứ
cù lao Ông Chưởng này vẫn trầy trật tồn tại trong rất nhiều khó khăn, trở thành
một trong những làng nghề có tuổi đời lâu nhất của huyện cù lao Chợ Mới, An
Giang, nằm giữa hai dòng sông Tiền - sông Hậu.
Những
người bắt đầu gây dựng làng nghề vốn ở xã Long Kiến (Chợ Mới, An Giang) nhưng
để tồn tại, phát triển hưng thịnh, trở thành làng nghề nổi tiếng khu vực thì
Long Giang mới chính là "cái nôi" của làng nghề. Theo đó thì nghề mộc
gia dụng xã Long Giang ngày nay ra đời từ những năm 1930 - 1940 của thế kỷ
trước. Ông Ba Doãn (Nguyễn Văn Doãn, ấp Long Thạnh 1, xã Long Giang), một trong
những người cố cựu theo nghề mộc từ thuở bé cho biết: "Thời tôi còn nhỏ đã
thấy cha tôi (ông Nguyễn Văn Quốc, một trong những người đầu tiên đem nghề mộc
về nơi đây) làm nghề mộc này. Trước, ở đây chủ yếu là cưa lọng, mài những bộ lư
gỗ, khắc chân đèn, hoành phi, câu đối... để thờ. Sau mới phát triển thêm nghề
đóng tủ bàn ghế". Tâm sự về quá trình phát triển của làng nghề, rồi ông Ba
Doãn trầm tư: "Dân ở đất Long Giang, Long Kiến này trước nghèo khó lắm, bà
con phần lớn là thợ làm công cho các chủ trại gỗ lớn bên làng mộc, điêu khắc
Chợ Thủ. Làm công ăn lương mãi cũng chẳng khá lên, cho nên vài nhân công, trong
đó có ba tôi quyết định ra làm riêng, làm thêm từng phần gia công như chân đế,
lọng gắn vào phần đầu tủ thờ, rồi các bộ phận khác cần cắt, đẽo, khoan từng
phần... như chân tủ thờ, bộ lọng cửa phòng, khung điêu khắc tranh kiếng... cho
các chủ trại bên làng Chợ Th
Nói
đến nghề mộc chạm trổ, điêu khắc, cắt lọng, so về kỹ thuật và sự tinh tế thì
sản phẩm của những nghệ nhân vùng đất Long Giang, Long Kiến không hề thua kém
sản phẩm của các nghệ nhân vùng Chợ Thủ. Về điều này, ông Ba Doãn cho biết:
nghề mộc chạm, trổ đất cù lao Long Giang, Long Kiến phát triển mạnh với nào
tranh tứ quý (mai, lan, cúc, trúc), tứ linh (long, lân, quy, phụng), trúc mai,
tùng lộc, quả lựu, đôi tượng hoặc câu đối... Ngoài ra, nghệ nhân còn có những
kỹ thuật chạm khắc gỗ khác khá đa dạng, với bốn loại chính: chạm trổ, chạm
lộng, chạm nổi và chạm âm. Chạm trổ phải tạo nên hình tượng không gian ba chiều
và tách rời, có thể quan sát được hình tượng từ mọi hướng, thường áp dụng đối
với hình người hay thú. Chạm lộng cũng tạo nên hình tượng không gian ba chiều nhưng
không tách rời nhau mà các hình tượng này dính liền nhau thành một dãy, thường
áp dụng đối với các hình tứ linh hay tứ quý trên các bao lam, thành vọng. Chạm
nổi tạo hình tượng nổi một phần trên nền gỗ có hoa văn đính kèm, thường áp dụng
đối với các bức phù điêu. Còn chạm âm là loại chạm đơn giản, khoét lõm vào bề
mặt gỗ, thường áp dụng đối với các tấm liễn (câu đối bằng chữ Nho)...
Cũng
từ dạo ấy, làng nghề mộc xứ này bắt đầu hình thành cùng làng mộc Chợ Thủ nức
tiếng xứ miền Tây. Dần dà, từ làm công, những người thợ nơi đây bắt đầu làm ra
những sản phẩm riêng biệt như bộ lư hương, chân đèn bằng gỗ giá rẻ, bàn thờ cắt
lọng trang trí... Dân miền Tây ngày đó phần lớn còn nghèo, cuộc sống không mấy
dư giả để có thể mua được bộ lư hương bằng đồng để đặt trên tủ thờ, nhất là khi
con cái ra ở riêng, xây nhà cất cửa cần có bàn thờ tổ tiên với bộ lư hương, nên
khi những chiếc lư hương, bộ chân đèn bằng gỗ giá rẻ nơi đây ra đời đã đáp ứng
được nhu cầu của bà con nghèo, làng nghề phát triển ngày một hưng thịnh. Và
rồi, do nhu cầu xã hội, bên cạnh những sản phẩm phục vụ thờ tự, trang trí, bà con
đóng thêm tủ chén, bàn ghế, giường ngủ... bằng gỗ. Từ dạo ấy, người này chỉ
người kia rồi nghề mộc dân dụng phát triển nhanh thành làng nghề. Trớ trêu
thay, từ khi nghề đóng mộc dân dụng từ phụ phẩm gỗ ra đời, hàng bán càng chạy
thì những người vốn theo nghề mài lọng, lư hương, chân đèn, như ông Ba Doãn dần
ít đi, rồi nghề cưa táng, lọng, mài chân đèn, lư hương cũng ít dần, mọi người
chuyển sang làm đồ mộc gia dụng.
Lịch
sử làng nghề là thế, cho nên ngày nay, nghề đóng tủ chén, tủ áo, bàn, ghế,
giường, chõng ở đây cũng chuyển sang chuyên đóng các sản phẩm giá rẻ. Một chiếc
tủ chén qua hàng trăm công đoạn cũng chỉ khoảng 300 nghìn đồng. Một chiếc tủ
áo, tủ ấm chén, giường ngủ cho con cái cưới hỏi ra ở riêng cao lắm chỉ khoảng
từ 500 đến 700 nghìn đồng là đủ. Cũng bởi cái nghèo cho nên hầu như chẳng gia
đình nào ở làng nghề có vốn liếng để mua gỗ tốt. Ban đầu họ mua gỗ còng, xoài,
châm, gáo... về đóng mấy cái ghế đôn thờ, cưa lọng, chạm trổ lam, liễng. Rồi
người làng tìm mua gỗ vụn, gỗ mép của các trại cưa, trại mộc lớn khu vực nghề
mộc điêu khắc tủ bàn ghế cao cấp Chợ Thủ, Mỹ Hiệp (huyện Chợ Mới, An Giang),
Cao Lãnh (Ðồng Tháp) về tận dụng mà cưa, mà đóng, ghép. Dẫn chúng tôi thăm làng
nghề, anh Nguyễn Thanh Triều cho biết: "Dân ở đây tuy cuộc sống đã có khá
hơn trước nhưng vẫn còn nghèo. Có công ăn việc làm ổn định nhưng mức sống vẫn
còn thấp. Bà con làm trước, trả sau là chủ yếu. Ðời thợ mộc là thế". Thật
vậy, dọc tuyến đường trên dưới một cây số, chẳng có mấy nhà xây khang trang
nhưng hoạt động sản xuất thì vẫn tất bật. Ðang cặm cụi khoan ngàm đóng tủ, lúc
ngơi tay, ông Út Dũng (Dương Minh Dũng, ở ấp Long Thạnh 1) nói: "Ba đời
làm thuê, cái đời thợ mộc cũng chẳng khá giả gì. Ngày kiếm vài chục nghìn lo
cơm nước trong nhà là may lắm rồi". Ngôi nhà tuềnh toàng bên mép kênh Ông
Chưởng của ông Út Dũng, nơi chúng tôi ngồi trò chuyện cũng đã lỗ chỗ "lỗ
thông hơi". Ông Út nói: "Tính là sửa lâu lắm rồi nhưng làm trước, trả
sau chưa đủ tiền".
Ðể
đóng thành phẩm một chiếc tủ hay một giường phải qua rất nhiều công đoạn, thế
nhưng vì đây là sản phẩm giá rẻ, bán cho người có thu nhập thấp nên tiền công
cho một công đoạn cũng chỉ vài nghìn đồng nên thu nhập của nhân công theo nghề
mộc nơi đây chỉ vài chục nghìn đồng/ngày. Một khó khăn khác mà bà con phản ánh
chính là khâu vận chuyển, tiêu thụ sản phẩm đang gặp thế bí. Mặt hàng gỗ gia
dụng khá nặng, thường vận chuyển bằng đường bộ (xe tải là nhanh nhất), nhưng
tải trọng cầu, đò ngang dọc tuyến xã Long Giang không chịu được tải trọng lớn,
đường thủy thì tốn thời gian và tiền vận chuyển lại nâng giá thành sản phẩm.
Thêm vào đó, hiện đầu mối tiêu thụ cũng chưa bảo đảm, lúc thế này, lúc thế khác
nên bà con làm ra sản phẩm cứ thấp thỏm.
Ðược
chính thức công nhận làng nghề từ năm 2008, thế nhưng nhiều năm qua, làng nghề
mộc gia dụng Long Giang, Long Kiến chưa được hỗ trợ, vay vốn ưu đãi để phát
triển nghề. Anh Nguyễn Minh Triều, Chủ nhiệm làng nghề mộc gia dụng xã Long
Giang, đưa chúng tôi xem mấy quyết định liên quan đến làng nghề rồi tâm sự:
"Thống kê cả làng có 116 hộ theo nghề, hơn 500 lao động làm việc thường
xuyên, hàng nghìn lao động làm việc bán thời gian. Tuy nhiên, đến nay chúng tôi
vẫn cứ tự bơi mà sống. Vốn liếng mượn trước trả sau, cho nên phần đông người
theo nghề gỗ gia dụng nơi đây vẫn cứ lay lắt qua ngày". Còn theo anh
Trưởng ấp Long Thạnh 1 thì, tuy cuộc sống còn nhiều vất vả, nhưng rất mừng là
con em làng nghề đều được học hành đến nơi đến chốn. Hiện làng có khoảng 30 em
đang theo học từ cao đẳng trở lên, hứa hẹn sự đổi đời ở thế hệ tiếp theo của
người dân làng nghề. Ðã tồn tại hơn 80 năm, nhưng làng nghề mộc gia dụng xứ cù
lao Ông Chưởng giờ đây đang gặp nhiều khó khăn do biến động thị trường và các
tác động khác.
Khi
xã hội phát triển, những bộ lư hương, chân đèn xưa kia không còn hưng thịnh.
Những chiếc tủ, giường gỗ được đóng bằng gỗ vụn ngày một ít dần trong các gia
đình trẻ do bị cạnh tranh khốc liệt với những sản phẩm giá rẻ hơn. Ông Ba Doãn
chia sẻ: "Nhà cửa bây giờ đâu có mấy nhà còn cất kiểu nhà sàn gỗ truyền
thống miệt sông nước miền Tây nên mấy cái lam cửa, lam phòng cưa lọng gần như
không còn sản xuất đến cả chục năm rồi. Thêm mấy cái lư, liễn bằng gỗ cũng
không được thịnh khi bộ lư đồng, câu đối, hoành phi bằng các chất liệu khác
phát triển mạnh, giá rẻ, nên cả làng bây giờ sống nhờ mấy cái tủ chén, tủ đồ,
giường... bằng cây tạm giá bèo này thôi". Có lẽ thế nên những người thợ
tâm huyết với làng nghề ngày một bỏ dần nghề khi mối tương quan giữa công việc
và thu nhập không còn phù hợp. Âu đó cũng là cái khó chung của nhiều làng nghề
truyền thống hiện nay. Ðược biết, tỉnh, huyện và xã đang khẩn trương tiến hành các
khâu thành lập tổ liên kết sản xuất, thành lập hợp tác xã ở làng nghề Long
Giang, Long Kiến. Theo anh Triều, để thành lập được tổ liên kết cần có sự gắn
kết giữa mọi người trong làng nghề, người muốn vào tổ cần thấy được những ưu
đãi thiết thực, bộ máy vận hành của tổ cần bảo đảm... Nếu giải quyết tốt các
vấn đề này, sẽ tạo ra cơ sở cho tổ liên kết có thể hình thành, đứng vững và
phát triển.
Theo NDĐT