Từ bao đời nay, vùng đất Tân Châu (tỉnh An Giang) đã nổi danh với làng
nghề truyền thống dệt lụa. Lụa Tân Châu có nguồn gốc hoàn toàn từ thiên nhiên,
độ bền lâu, mát mịn và quý phái… nên không ít phụ nữ thời bấy giờ mơ ước. Tuy
nhiên, sự cạnh tranh gay gắt của nhiều loại vải trên thị trường, rồi chuyện
khan hiếm nguyên liệu, khó tìm đầu ra cho lụa… đã đẩy làng nghề độc nhất vô
nhị này có nguy cơ mai một.
Đập lụa, công đoạn cuối cùng để hoàn thành sản
phẩm
Huyền thoại một làng lụa xưa
Theo
những chuyến xe đò về miền Tây, chúng tôi tìm đến ấp Hưng Long, huyện Tân
Châu khi cái nắng bắt đầu phủ gắt khắp các triền sông, bãi bồi miệt thứ. Đây
là thời điểm lý tưởng để người làm lụa thực hiện các công đoạn quay tơ, dệt,
nhuộm, đập… Thế nhưng, trái với tâm trạng háo hức nghe tiếng khung cửi rầm
rập, đường hương lộ 2 dẫn về xứ lụa sôi động một thời, giờ đây có khá nhiều hàng
quán chen chúc, như mạch chảy vô tình của phố thị phồn hoa.
Nhiều
bậc cao niên kể lại, những năm đầu thế kỷ XX, nơi đây có rất nhiều cơ sở sản
xuất lụa. Từ biên giới Campuchia đến Tân Châu, Tân An, Phú Lâm… đâu đâu cũng
thấy bạt ngàn một màu xanh của dâu tằm và âm thanh của các loại khung dệt,
rộn rã từ sáng sớm đến tối mịt. Trên bến dưới thuyền, lúc nào cũng có thương
lái khắp nơi tìm đến mua lụa Tân Châu. Lụa Tân Châu bấy giờ rất được giá và
được ưa chuộng trên các thị trường Campuchia, Sài Gòn, miền Trung và cả ở Pháp...
Làng nghề hưng thịnh, đời sống người thợ dệt sung túc thấy rõ, diện tích
trồng dâu cũng mở rộng. Nếu như, 30 năm đầu của thế kỷ XX, toàn huyện chỉ có
chưa tới 2.000ha trồng dâu thì đến năm 1936 dâu đã phủ xanh hơn 10.000ha dọc
theo những làng ven sông Tiền. Màu xanh của dâu phủ đến đâu thì những cánh
rừng mặc nưa (một loại cây dùng làm màu nhuộm lụa) cũng mọc lên đến đó.
Chưa
dừng lại ở đó, người Tân Châu còn tạo ra sản phẩm phục vụ cho nhu cầu ngày
một cao của thị trường. Nhu cầu của khách hàng đã được đáp ứng bằng một loại
sản phẩm “vô tiền khoáng hậu” tên lãnh Mỹ A những năm 60 – 70 của thế kỷ
trước. Lãnh Mỹ A có độ bền tốt, có độ láng mịn, hút ẩm và luôn thoáng mát,
đặc biệt, mặc càng lâu càng óng ả, đã khiến nhiều dân sành lụa mê mẩn tìm đến
tận nơi mua về, dù một chỉ vàng chỉ mua được vài mét vải.
Nhận
thấy tiềm năng kinh tế của nghề này, huyện Tân Châu lúc bấy giờ đã thành lập
Công ty tơ lụa (năm 1987). Nhưng chỉ hai năm sau nhiều loại vải giá rẻ, quần
áo may sẵn mẫu mã phong phú tràn ngập thị trường đã khiến lụa Tân Châu mất
dần tính cạnh tranh và chìm hẳn, các Công ty tơ lụa cũng giải thể. Nhiều hộ
gia đình đốn dâu trồng lúa, trồng hoa màu. Làng lụa xơ xác, khung cửi lặng
im…
Người giữ hồn cho lụa trăm năm
Trong
khi lụa Tân Châu khốn đốn và hàng loạt người bỏ cửi, phá dâu thì có một nghệ
nhân già vẫn âm thầm dệt lụa rồi đôn đáo tìm nơi tiêu thụ. Đó là ông Nguyễn
Văn Phong, bà con ở đây thường gọi thân mật là ông Tám Lăng. Ông Tám là người
duy nhất còn làm nghề lụa ở Tân Châu. “Tôi đã sống cả đời với nghề dệt lụa
nên không khỏi chạnh lòng khi thấy lụa gặp khó khăn. Tôi chịu vất vả, chịu lỗ
với lụa chỉ với ước mơ khôi phục lại làng nghề cho con cháu”, ở cái tuổi xưa
nay hiếm, ông Tám Lăng tâm sự.
Xuất
thân làm ruộng ở vùng quê nghèo khó, ông Tám kiếm sống bằng nghề bán trái mặc
nưa cho thợ nhuộm. Những tấm lụa nguyên sơ, mát đẹp, tự bao giờ đã sớm gieo
vào ông tình yêu với nghề. Thời của ông là đỉnh cao của làng nghề dệt lụa Tân
Châu, gia đình ông đổi đời cũng nhờ lãnh Mỹ A và Cẩm Tự. Khi lụa lâm cảnh
khó, mỗi năm ông chỉ sản xuất cầm chừng từ 2.000 – 4.000m mà cũng khó tìm nơi
tiêu thụ. Để có tơ đẹp, ông Tám Lăng phải đặt hàng tận Lâm Đồng. Ông nói:
“Mỗi cây lụa, tiền trả lương thợ mất 150.000đ. Giá tơ tằm mấy tháng trước chỉ
330.000đ/kg, thời điểm này giá tơ đã lên 470.000đ/kg mà tơ cũng không nhiều.
Nguyên nhân là do các thương lái Trung Quốc mua nhiều tơ và đẩy giá lên.
Thông thường 1,6 kg tơ sẽ dệt được một cây lụa, giá bán chỉ 85.000đ/m, trả
lương thợ là chỉ… đủ vốn”.
Chưa
dứt một tuần trà, bao nỗi niềm chất chứa bấy lâu trong ông lại có dịp quay
về. Ông kể, đã bao lần ông muốn đoạn tuyệt với lụa để tìm kế khác sinh nhai.
Rồi người mẹ rất mực yêu quý của ông qua đời, trước khi ra đi, bà muốn con
trai tự tay dệt bộ quần áo cho bà mặc khi an táng. Lụa lại về trong giấc ông
mơ.
Hành trình đưa lụa qua bể dâu
Giữa
lúc ông Tám đang bế tắc với lãnh Mỹ A, Cẩm Tự truyền thống thì đầu năm 2003,
anh Nguyễn Hữu Trí, con trai út của ông bỏ nghề lái xe quay về phụ cha dệt
lụa. Để hoàn thành một cây lụa phải mất hơn 3 tháng với nhiều công đoạn phức
tạp, thế nhưng, Trí vẫn kiên trì theo cha. Thấy trái mặc nưa chỉ cho màu đen
trên lụa và chưa có loại cây nào có thể cho màu khác phong phú hơn, Trí bỏ công
lặn lội khắp mọi miền. Có lúc, anh lên Tây Nguyên, qua Campuchia… khi lại
rong ruổi khắp vùng ĐBSCL để tìm màu cho lụa. Không nhiều vốn hiểu biết về
cây cỏ, Trí chọn cách thử… tất cả. Đến giờ, Trí không sao nhớ nổi đã thử
nghiệm bao nhiêu lần và bao nhiêu loại cây.
Những
sản phẩm được khoác lên màu sắc mới như một sự đền đáp xứng đáng cho những
ngày tháng âm thầm của Trí. Đến nay, lụa Tân Châu của anh đã có đến 7 màu:
đồng, vàng, chàm, hồng phấn… “Hồi mới tạo màu trên lụa, tôi mang đi chào hàng
nhiều người không dám mua vì nghĩ rằng lụa Tân Châu giả hoặc nhuộm bằng hóa
chất. Mình phải thuyết phục và bảo lãnh, người ta mới chịu mua đó”, Trí cười xởi
lởi. Cùng với chính sách phát triển du lịch của An Giang, lụa Tân Châu nhiều
màu của Trí đã tìm được chỗ đứng trên thị trường và bắt đầu thu hút du khách
nước ngoài. Không chịu dừng lại ở đó, Trí “khoe” vừa thành công với màu thứ 8
cho lụa: màu xanh.
Lụa
Tân Châu đang trở lại thị trường trong và ngoài nước sau thành công từ những
bộ thời trang của nhà thiết kế Võ Việt Chung, với chất liệu chính là lãnh Mỹ
A, Cẩm Tự. Bên cạnh đó, thành công của Liên hoan Du lịch ĐBSCL những năm gần
đây và chủ trương kết hợp du lịch với làng nghề truyền thống của An Giang sẽ
là động lực để vực dậy một làng nghề trứ danh. Mai này, lụa Tân Châu sẽ lại thướt
tha khắp mọi miền và những người con Tân Châu xa xứ cũng thôi ngậm ngùi còn
thương nếp lụa…
Theo báo mới
|