Những
động tác mạnh mẽ, uyển chuyển đầy tinh thần thượng võ của các chàng trai Mông,
được thể hiện vô cùng tinh tế trong điệu khèn, mang đến cho người nghe một cảm
giác kỳ lạ và huyền ảo như thể đang thưởng thức một vũ điệu của ngàn xanh.
Chỉ nam giới mới thổi được khèn
Do tính chất mạnh mẽ đòi hỏi sự dũng cảm, nhanh nhẹn, khéo léo, tài hoa với
nhiều yếu tố nghệ thuật và kỹ thuật cao, nên chỉ có nam giới tham gia. Điệu múa
độc đáo này thường được tổ chức trong các cuộc vui, các lễ hội như: hội sài
sán, hội gầu tào, những phiên chợ xuân…
Các nhà nghiên cứu đã thống kê có tới hơn 30 động tác trong
điệu dân vũ này như: đi thường, nhảy đưa chân, nhảy lướt, quay đổi chỗ, bước
lượn, vờn khèn, đá gót, ngồi quay, chọi gà, nhảy ngang đạp chân, bước trườn,
bước lượn, ngoáy chân, đánh chân tại chỗ, quay di động, quay nhích gót, lăn
khèn… trong đó mô-típ chủ đạo là quay hất gót tại chỗ và quay hất gót di động
trên vòng quay lớn rồi thu hẹp dần theo hình xoáy ốc.
|
Tiếng khèn giữa mùa
xuân. (Ảnh minh họa)
|
Cuộc
sống lao động, chiến đấu chống kẻ thù hai chân và bốn chân, khát vọng yêu
đương… được thể hiện tinh tế trong những vũ điệu đẹp mắt, tài hoa, dũng mãnh và
trữ tình. Có những điệu múa vô cùng khó như điệu lăn khèn vì người múa
khèn phải vừa ôm khèn vừa lăn mình trên đất, tiếng khèn vẫn không bị đứt quãng,
có lúc người múa khèn còn chồng cây chuối dựng đứng thân mình mà dòng suối âm thanh
vẫn dạt dào tuôn chảy, điệu múa đạt tới đỉnh cao của nghệ thuật, hoành
tráng đầy chất trữ tình.
Điều
thú vị và rất khó là trong khi thể hiện các điệu múa dù khó đến đâu thì tiếng
khèn không được để ngắt quãng hoặc lỗi nhịp.
Không chỉ là lời tỏ tình
Khèn
Mông được chế tác bằng gỗ pơmu là hộp cộng hưởng cùng sáu ống trúc lớn, nhỏ,
dài, ngắn khác nhau, có lưỡi gà bằng đồng tạo ra một hệ thống âm thanh trong
sáng, tiếng khèn có thể cùng lúc phát ra nhiều âm thanh, nhiều bè, vang xa trầm
hùng như tiếng của gió ngàn trong lá, của dòng nước đang reo vui êm ả trôi
xuôi, thác đổ, chim kêu, vượn hót…
Khèn
Mông thường được sử dụng trong hai trường hợp: đám tang để tỏ lòng xót thương,
luyến tiếc người quá cố; trong vui chơi để thi thố tài nghệ, bộc lộ bản chất ý
chí, nghị lực của con người trong sinh hoạt cộng đồng. Con trai từ 13 tuổi đã
có cây Khèn trên vai mỗi khi lên nương, xuống chợ. Có thể nói khèn là nhạc cụ
không thể thiếu trong sinh hoạt cộng đồng của người Mông, trở thành biểu trưng của
văn hóa Mông. Người Mông đời này kế tiếp đời khác đều dạy con trai vươn
đến đỉnh cao của nghệ thuật thổi và múa khèn. Đã là con trai Mông thì điều đáng
quý và trân trọng nhất đầu tiên là phải biết chơi khèn.
Các
nhà nghiên cứu và du khách sau khi tìm hiểu đều vô cùng khâm phục, vì người
Mông thích nghe tiếng khèn, thích thổi khèn và múa khèn bởi thông qua sinh hoạt
văn hóa ấy, người ta thêm yêu lịch sử của dân tộc, tình mẫu tử, huynh đệ sắt
son bền chặt và về lẽ sống làm người chứ không phải chỉ là lời tỏ tình như một
số người vẫn lầm tưởng.
Là tiêu chí để thiếu nữ Mông chọn
chồng
Với
các chàng trai Mông, thổi khèn hay, múa khèn giỏi là một trong những tiêu chí
để đáng giá tài năng đức độ và để các cô gái lựa chọn bạn tình. Tiếng khèn như
sợi chỉ hồng xe duyên đôi lứa.
Tiếng
khèn làm các cô gái bồi hồi say đắm, xòe ô bước trong vũ điệu tình yêu và đánh
thức tiếng lòng của bất kỳ ai duyên may một lần thưởng thức.
Điệu
múa khèn Mông đã được dàn dựng trên sác sân khấu chuyên nghiệp, được trình diễn
trên nhiều san khấu trong và ngoài nước, được bạn bè quốc tế khâm phục và tán
thưởng và dành được nhiều giải thưởng của trung ương và các địa phương.
Khèn
Mông và điệu múa khèn độc đáo trở thành tài sản văn hóa vô giá không chỉ của
riêng người Mông, mà còn là món quà tinh thần đặc sắc cho những ai duyên may
một lần được thưởng thức.
Theo đất việt