Huyện Bắc Mê (Hà
Giang) là một vùng đất cổ, có truyền thống văn hóa lâu đời. Bắc Mê nổi tiếng
với những lễ hội văn hoá đặc sắc được thể hiện qua phong tục tập quán, qua
lao động sản xuất và sinh hoạt của nhân dân, và bên cạnh đó thiên nhiên đã
ban tặng cho Bắc Mê nhiều cảnh quan đặc sắc và hấp dẫn.
Để phát huy nội
lực và khai thác tiềm năng sẵn có, trong thời gian qua, huyện Bắc Mê đã và
đang tích cực xây dựng chiến lược phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, xây
dựng các tua, tuyến du lịch, trong đó đặc biệt coi trọng xây dựng làng văn
hóa du lịch cộng đồng. Bản Lạn là một trong số các thôn bản của huyện Bắc Mê
đi lên từ việc khai thác các tiềm năng sẵn có để phát triển du lịch.
Nằm cách trung tâm huyện
lỵ Bắc Mê 5 km về phía đông bắc, cách thành phố Hà Giang 50 km đi theo tuyến
quốc lộ 34, Bản Lạn được công nhận là Làng Văn hóa Du lịch cộng đồng ngày
25/12/2007. Bản Lạn là một trong 12 thôn của xã Yên
Phú có tổng diện tích tự nhiên hơn 128 ha, chủ yếu là diện tích rừng tự nhiên
và rừng trồng.
Đến Bản Lạn hôm
nay, ta bắt gặp một làng văn hóa đặc trưng, truyền thống xen kẽ nét hiện đại
với cơ sở hạ tầng khang trang phục vụ du khách đến tham quan, du lịch. Tổng số dân trong bản hiện có là 40
hộ với 214 người đều là dân tộc Tày. Các giá trị truyền thống, bản sắc dân
tộc nơi đây vẫn được lưu giữ khá nguyên vẹn, thể hiện qua trang phục, trang
sức, ẩm thực và các lễ hội truyền thống vẫn được tổ chức ở địa phương như: Lễ
hội Lồng Tồng, múa hát giao duyên, trò chơi dân gian đu quay, đánh sảng,...
Nét đặc sắc trong
trang phục truyền thống của dân tộc Tày là một sắc chàm với hoa văn được
trang trí trên trang phục. Tuy có sự đơn giản về màu sắc, hoa văn so với một
số dân tộc khác như H’mông, Lô Lô, nhưng vẫn làm nổi bật vẻ duyên dáng của
các cô gái Tày.
Người Tày sống tập
trung thành bản ngay ở chân núi thấp với việc dựng nhà theo kiểu rất đặc
trưng là nhà sàn khá cao, mái ngói; tường nhà, cột chống, cầu thang được làm
hoàn toàn bằng gỗ và vẫn duy trì nếp sống trong cùng một gia đình với nhiều thế hệ, các thành
viên trong gia đình đoàn kết và yêu thương nhau. Mỗi ngôi nhà vẫn giữ được cách bài trí và sắp đặt truyền thống, ở
giữa là nơi thờ cúng tổ tiên, xung quanh là nơi sinh hoạt của cả gia đình. Chính
giữa nhà vẫn là nơi có thể đốt củi, điều này đặc biệt có ý nghĩa với những
gia đình có người cao tuổi khi mùa đông lạnh đến.
Ngoài nghề nông cơ bản là trồng lúa nước, đồng
bào người Tày còn canh tác các loại cây lương thực khác như ngô, khoai, sắn…
đặc biệt là trồng chè phục vụ nhu cầu hàng ngày và là sản phẩm hàng hóa tiêu
thụ ra thị trường, bên cạnh đó, người dân trong làng vẫn duy trì nghề dệt thổ
cẩm truyền thống.
Người Tày ở Bản Lạn có cách chế biến các món
ăn rất hài hòa và đặc sắc, các món ăn phù hợp với khẩu vị của tất cả mọi
người. Các loại thực phẩm đều tự túc, đảm bảo vệ sinh và cách trang trí các
món tuân theo nguyên tắc âm dương, đem lại cho người ăn cảm giác ngon và lạ.
Có khá nhiều món ăn truyền thống như: thịt lợn treo gác bếp, thịt mắm, cơm
xôi với cá nướng đem lại sự thú vị cho người thưởng thức. Cùng với đó còn có
các loại rượu ngô được chế biến từ men lá rất đặc trưng.
Đồng bào dân tộc Tày ở Bản Lạn còn lưu giữ
được nhiều nét văn hóa khá đặc sắc như: Hát then hay các làn điệu múa bát,
hát quan làng, hát cọi, hát giao duyên, bài cúng truyền thống. Đặc biệt, cây
đàn tính là nhạc cụ truyền thống của đồng bào dân tộc Tày không thể thiếu
trong các làn điệu hát then, một làn điệu được bắt nguồn từ trong lao động
sản xuất hoặc trong sinh hoạt hàng ngày. Người Tày hát then để quên đi nỗi
vất vả cực nhọc, để trao gửi tâm tình, để cầu chúc cho nhau những điều tốt
lành trong cuộc sống…
Để tạo cảnh quan, trong thôn đã tiến hành
trồng cây đào, khi tết đến xuân sang, đến Bản Lạn, du khách có thể đắm mình
trong sắc hồng của hoa đào và trong tiết
mùa hè có dịp thưởng thức những loại trái cây sạch do chính những
người dân nơi đây trồng như: đào, mận, dưa…/.
Theo TITC
|