Có một điểm rất
đặc biệt đối với những người thợ săn ở xóm Lũy là mỗi lần bắt được một con thú
bất kể nhỏ hay lớn, họ đều dùng máu và ít lông của con thú đó bôi lên cánh nỏ.
Làng làm nỏ giữa đại ngàn
Nằm ẩn sâu trong thung lũng Mường Bi, chìm khuất dưới những
tán rừng rậm rạp, ít ai biết rằng vẫn còn tồn tại một bản làng với truyền
thống làm nỏ gỗ và những huyền thoại về xạ thủ chốn sơn cước hoang vu.
Đường vào bản Lũy, xã Phong Phú, Tân Lạc, Hòa Bình, chỉ cách
đường quốc lộ chưa đầy 10km nhưng đã khiến người ta như lạc vào một thế giới
nguyên sơ với những nếp nhà sàn thấp thoáng ẩn hiện. Khung cảnh thanh bình đến mức
tịnh không một tiếng động.
Qua sự giới thiệu của người dân, tôi tìm gặp được ông Bùi
Văn Mậu (SN 1940) người có “thâm niên” làm nỏ gỗ, ông cũng là một trong những
xạ thủ hiếm hoi còn sót lại của xứ Mường Bi nổi tiếng của Hòa Bình.
Nói về ngôi làng với truyền thống làm nỏ gỗ của mình, ông
Mậu kể rằng, người dân ở bản Lũy đã nổi tiếng làm nỏ từ vài trăm năm trước đây,
bất cứ đứa trẻ nào lớn lên trong bản cũng biết tới chiếc nỏ gỗ vừa là vũ khí để
tự vệ khi đi rừng vừa là công cụ để tiến hành săn bắt, tìm kiếm thực phẩm.
|
Ông Mậu kể về truyền
thống làm nỏ của bản Lũy
|
Có thời kỳ, dân bản Lũy gặp phải năm hạn hán mất mùa, đời
sống người dân hết sức khổ cực, nhiều người phải bỏ mạng vì không có gì ăn. Khi
ấy, già làng đã tụ họp nhóm thanh niên trai tráng lại để cùng nhau làm nỏ gỗ sau
đó đi lên những dãy núi rậm rạp để săn thú đem về chia cho người dân trong bản.
Nhờ đó dân bản Lũy mới vượt qua được những tháng ngày khó khăn. Bởi vậy, với
người dân nơi đây, nỏ gỗ không đơn giản chỉ là một dụng cụ mà nó còn mang một ý
nghĩa thiêng liêng như một vật dụng tín ngưỡng.
Trong mỗi ngôi nhà ở bản Lũy đều treo đầy những nỏ gỗ.
Nhà ít thì vài cái, nhiều lên tới hàng chục, hàng trăm chiếc đủ các loại từ cỡ
bé đến cỡ cực đại. Mặc dù nỏ gỗ không phải là hiếm ở bất cứ bản làng nào ở xứ
Mường nhưng nói đến nỏ của bản Lũy bao giờ người ta cũng phải “kiêng nể” về sức
mạnh và độ chuẩn xác.
|
|
Mỗi gia đình bản Lũy đều
treo rất nhiều nỏ trong nhà vì họ coi nỏ như một vật dụng tín ngưỡng
|
Theo ông Mậu, để làm được một chiếc nỏ hoàn thiện phải
trải qua rất nhiều công đoạn. Từ việc chuẩn bị vật liệu tới khi tiến hành gia
công đều cần sự khéo léo và tỉ mỉ cao. Phần quan trọng nhất của nỏ là cánh nỏ.
Cánh của nỏ chính là nơi hội tụ sức mạnh của nó để khi kéo dây tạo ra lực bắn mũi
tên vào mục tiêu. Muốn nỏ có tầm bắn xa, lực bắn mạnh thì việc chọn tre làm
cánh nỏ là cực kỳ quan trọng. Loại tre tốt nhất là luồng pạ ná trồng lâu năm,
ít nhất cũng phải 10 năm.
“Để tìm được những cây luồng pạ ná tốt là một điều rất khó,
thường phải leo lên những quả đồi cao tìm bụi luồng mọc ở đỉnh. Chỉ có luồng
mọc trên đỉnh đồi mới đủ độ săn và sức bật để làm cánh nỏ, còn luồng trồng
những nơi đất thấp thì chỉ dùng làm nỏ lưu niệm mà thôi. Cánh nỏ thông thường
có sải khoảng 1,2m tương ứng với đoạn tre dài khoảng 5 đến 6 đốt. Còn nếu kiếm
được đoạn tre già lâu năm có thể làm được những cánh nỏ có sải lên đến 1,4m
hoặc hơn”, ông Mậu cho biết
Thân nỏ được làm bằng đủ các loại gỗ, nhưng dùng gỗ cây hồng
bì hoặc cây làm đam là tốt nhất. Gỗ hai loại cây này rắn chắc, ít cong vênh,
dai và không giòn rất thích hợp làm thân nỏ. Cưa lấy đoạn gỗ không có mắt,
thẳng thớ không sâu mọt để vài tháng cho gỗ khô kiệt tự nhiên là có thể xẻ ra
làm thân nỏ được.
Sau khi đã chuẩn bị cánh và thân nỏ xong ta tiến hành khoét
lỗ tra cánh nỏ vào thân. Người làm sẽ phải ngắm chỉnh nỏ cho cân, điều chỉnh độ
nghiêng giữa cánh và thân nỏ sao cho hợp lý rồi tạo chỗ vào dây ở hai đầu cánh
nỏ.
Một điều quan trọng khác đó chính là làm dây nỏ, ở bản Lũy
dây nỏ được làm từ cây gai, sợi gai được nối với nhau cho đủ độ dài rồi đem se
làm dây nỏ. Nhưng nếu chỉ như vậy thì chưa tạo cho dây đủ độ săn cần thiết. Để
dây nỏ săn và bền hơn người ta đem căng dây nỏ lên rồi dùng lá thé tuốt dây (thé
là một loại cây dại mọc rất nhiều ở miền núi). Tuốt đi tuốt lại nhiều lần nhựa
lá thé ngấm vào làm dây nỏ săn lại ngả màu đen sẫm.
Để làm nên sự chính xác của nỏ gỗ, cần phải có những mũi tên
đạt “chuẩn”. Muốn tên bay xa và chính xác ta phải làm cánh cho tên. Ra rừng cắt
lá rứa dại về phơi khô, khi dùng đem ép phẳng, cắt vát hình thoi rồi lấy mũi
dao tách nhẹ một khe gần cuối thân mũi tên, lựa đưa mảnh lá vào cho cân đối là
xong. Các mũi tên vót xong phải thẳng nhẵn, cân đối và đồng đều về kích thước
cùng trọng lượng của tên.
Vũ khí chống ngoại xâm và diệt thú dữ
Theo ông Mậu, vào những năm đất nước còn chìm trong khói lửa
chiến tranh, những vũ khí hiện đại như súng, đạn vẫn còn khan hiếm. Đặc biệt
với những đồng bào dân tộc ở xứ Mường Bi lại càng xa lạ.
Bởi vậy, khi nghe theo tiếng gọi của Đảng, Bác Hồ, những
người dân bản Lũy đã đứng lên đánh giặc giữ đất, giữ bản bằng những chiếc nỏ gỗ
tự làm. Tuy nhiên, để có thể hạ gục được những tên lính to lớn, người dân đã
lấy thứ chất độc từ lá cây trên rừng tẩm vào đầu mũi tên rồi ngắm bắn.
Không chỉ đánh giặc giữ làng, những người con của xóm Lũy
còn là những chiến binh dũng mãnh trong việc đối phó với muôn thú dữ về quấy
phá dân bản. Ông Mậu đã kể cho tôi nghe câu chuyện về người thanh niên A Lý, đã
bắn hạ một con hổ dữ chuyên vào quấy phá người dân trong bản.
|
Ông Lũy đang kéo một cây
nỏ gỗ cỡ lớn
|
“Hay tin con hổ lại trở về làng quấy phá, một mình A Lý mang
theo chiếc nỏ gỗ cỡ lớn cùng tên tẩm thuốc độc rồi nấp sau một tảng đá to trước
cổng làng để mai phục. Khi con hổ đang mải rình để vồ một con bò của người dân
bản, A Lý đã tiến tới dùng tên tẩm thuốc độc bắn thẳng vào huyệt tử khiến con
hổ đau đớn giãy giụa điên cuồng. Không chần chừ, A Lý rút tên bắn liên tiếp
khiến con hổ phải bỏ mạng”, ông Mậu kể.
Có một điểm rất đặc biệt đối với những người thợ săn ở xóm
Lũy, đó là mỗi lần bắt được một con thú bất kể nhỏ hay lớn, họ đều dùng máu và
ít lông của con thú đó bôi lên cánh nỏ. Vì thế, những cây nỏ cổ hiện nay vẫn
còn một lớp trông như lớp nhựa trộn với lông thú bám chặt vào nỏ. Họ xem cây nỏ
như một vị thần linh đi theo để bảo vệ và nuôi sống cả gia đình mình nên họ thể
hiện sự tôn kính đối với bề trên bằng cách mời cây nỏ thưởng thức đầu tiên.
Chính hoàn cảnh sống khó khăn ấy đã rèn luyện những người
con ở xóm Lũy trở thành những tay xạ thủ cự phách với lòng dũng cảm kiên cường.
Bản thân ông Mậu trước đây cũng là một xạ thủ với tài bách phát bách trúng. Ông
từng tham gia và giành giải ở hầu hết các cuộc thi bắn nỏ tổ chức trong bản và
giữa các bản với nhau: “Có thời, không một thanh niên nào ở xứ Mường Bi này bắn
nỏ gỗ vượt được qua mình đâu", ông Mậu tự hào kể lại.
Kinh Vân