Theo ICOM (Hội đồng Bảo tàng Quốc tế thuộc UNESCO), “bảo tàng là một
thiết chế phi vụ lợi, hoạt động lâu dài phục vụ cho xã hội và sự phát
triển của xã hội, mở cửa đón công chúng đến xem, có chức năng sưu tầm,
bảo quản...
Nếu thực sự coi “bảo tàng là thiết chế văn hóa” phản ánh “lịch sử như
một dòng chảy trong truyền thống văn hóa” thì hệ thống bảo tàng nước ta
cần được sắp xếp lại để hạn chế sự trùng lặp về nội dung và cả hình thức
trưng bày, nhất là giữa các bảo tàng địa phương vì đều được xây dựng
theo chung một “kịch bản” nặng về chiến tranh mà còn nhẹ về văn hóa – xã
hội.
Theo ICOM (Hội đồng Bảo tàng Quốc tế thuộc UNESCO), “bảo tàng là một
thiết chế phi vụ lợi, hoạt động lâu dài phục vụ cho xã hội và sự phát
triển của xã hội, mở cửa đón công chúng đến xem, có chức năng sưu tầm,
bảo quản, nghiên cứu, tuyên truyền và trưng bày các bằng chứng vật chất
về con người và môi trường sống của con người, vì mục đích nghiên cứu,
giáo dục và thưởng thức.” Theo định nghĩa trên, bảo tàng có ba chức năng
quan trọng là nghiên cứu khoa học; sưu tầm và bảo quản; trưng bày giới
thiệu đến công chúng di sản văn hóa vật thể và phi vật thể, cùng các mẫu
vật thiên nhiên.
Như vậy, căn cứ vào các bộ sưu tập hiện vật thì có hai loại hình chính
là bảo tàng lịch sử xã hội và bảo tàng lịch sử tự nhiên. Ở Việt Nam,
những bảo tàng đầu tiên do người Pháp thành lập vào khoảng đầu thế kỷ 20
cũng gồm hai loại hình trên, đó là Bảo tàng Hải dương học (Nha Trang,
khoảng 1910), Bảo tàng Địa chất (1914, Hà Nội), Bảo tàng Nghệ thuật Điêu
khắc Chăm (Bảo tàng Henri Parmentier, 1918, Đà Nẵng), Bảo tàng
Blanchard De la Brosse (1929, Sài Gòn), Bảo tàng L. Finot (1932, Hà
Nội). Ngoài ra, Vườn Bách thảo Hà Nội và Thảo Cầm viên Sài Gòn cũng được
coi là hai công viên - bảo tàng tự nhiên của Đông Dương lúc bấy giờ.
Điều cần chú ý là các bảo tàng do người Pháp thành lập đều trên cơ sở ít
nhiều đã có những bộ sưu tập hiện vật, mẫu vật, và xác định được “nguồn
hiện vật” phù hợp có thể sưu tầm để luôn tăng cường cho bảo tàng. Cho
đến nay, những bảo tàng này đều tạo được dấu ấn riêng và phát huy rất
tốt vai trò của mình.
Việt Nam có một hệ thống hàng trăm bảo tàng tỉnh, thành, ngành… Tuy
nhiên, điều dễ nhận thấy là hệ thống bảo tàng Việt Nam còn chưa khai
thác hết tiềm năng của di sản văn hóa và thiên nhiên đa dạng và độc đáo
để tạo sự khác biệt và hấp dẫn cho từng bảo tàng. Việc xây dựng bảo tàng
thường bắt đầu từ mục đích chính trị rồi mới triển khai công tác khoa
học nghiệp vụ, vì vậy không tránh khỏi hiện tượng “phong trào” trong xây
dựng và trưng bày bảo tàng.
Xu hướng hiện đại “bảo tàng hóa” di sản văn hóa theo nghĩa rộng là bảo
tồn và phát huy tất cả các di sản văn hóa đã bị/ được đưa ra khỏi môi
trường tồn tại ban đầu và đặt trong một môi trường nhân tạo do con người
tổ chức ra - đó là các bảo tàng. Còn theo nghĩa hẹp là một phương án
tối ưu và hiện đại, nhằm bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa trực
tiếp ngay trong môi trường sinh thái nhân văn, nơi di sản văn hóa được
sáng tạo ra, hiện đang tồn tại gắn bó với cộng đồng cư dân là chủ thể
của những di sản văn hóa ấy: một “bảo tàng sống – tại chỗ”, bao gồm
trong đó tự nhiên, con người và di sản văn hóa vật thể – phi vật thể.
Ở nhiều nước, lịch sử đất nước thường được thể hiện ở bảo tàng quốc
gia, hoặc một vài bảo tàng chuyên đề (bảo tàng quân sự/ chiến tranh
chẳng hạn), còn bảo tàng các địa phương hầu hết thể hiện những di sản
văn hóa, nhưng cũng không nhất thiết phải trình bày đầy đủ các thời kỳ
văn hóa mà thường tập trung vào những thành tựu, di sản độc đáo nhất.
Bên cạnh đó, hệ thống bảo tàng tư nhân (không quan trọng quy mô lớn nhỏ
mà được đánh giá qua giá trị sưu tập hiện vật) theo những chủ đề khác
nhau sẽ khai thác giá trị nhiều mặt của di sản văn hóa.
Hiện nay ở nước ta, loại hình bảo tàng lịch sử địa phương hay lịch sử
các ngành nghề, lĩnh vực là chủ đạo, loại hình bảo tàng thiên nhiên cũng
như bảo tàng văn hóa các cộng đồng tộc người ở từng vùng địa lý còn khá
hiếm hoi. Nếu thực sự coi “bảo tàng là thiết chế văn hóa” phản ánh
“lịch sử như một dòng chảy trong truyền thống văn hóa” thì hệ thống bảo
tàng nước ta cần được sắp xếp lại để hạn chế sự trùng lặp về nội dung và
cả hình thức trưng bày, nhất là giữa các bảo tàng địa phương vì đều
được xây dựng theo chung một “kịch bản” nặng về chiến tranh mà còn nhẹ
về văn hóa – xã hội.
Nên chăng xây dựng bảo tàng theo vùng văn hóa vì các tỉnh trong vùng
thường có cùng đặc điểm về điều kiện tự nhiên và đặc trưng văn hóa tộc
người; quá trình lịch sử xã hội của các cộng đồng tộc người không có
nhiều khác biệt. Nội dung lịch sử của vùng mang tính khái quát và phong
phú hơn. Trong hệ thống bảo tàng Việt Nam, những bảo tàng cấp quốc gia
và một số bảo tàng đầu ngành thuận lợi cho việc đảm nhận vai trò bảo
tàng vùng, miền. Bảo tàng các tỉnh phát triển theo hướng bảo tàng chuyên
đề về đời sống xã hội, ngành nghề, nhân vật, sự kiện… Càng đa dạng hóa
chủ đề, nội dung trưng bày thì sự hấp dẫn du khách đến với bảo tàng càng
tăng lên, mang lại một nguồn thu không nhỏ từ vé bảo tàng và các dịch
vụ như đồ lưu niệm, các tập sách, hình ảnh, băng đĩa về hiện vật bảo
tàng, và các dịch vụ khác.
Ở bất kỳ quốc gia nào, hệ thống bảo tàng và di tích lịch sử - văn hóa
luôn là “gương mặt” khả ái và tiêu biểu nhất mà quốc gia đó muốn giới
thiệu với bạn bè quốc tế. Không chỉ vậy, nó còn là tấm gương để chính
quốc gia đó soi vào, nhìn thấy mình trong quá khứ để hiểu mình hơn ở
hiện tại và tương lai. Chính vì vậy hệ thống bảo tàng và di tích – gọi
chung là những di sản văn hóa – được nhà nước và nhân dân luôn có ý thức
bảo tồn, gìn giữ đồng thời có nhiều hình thức giới thiệu và tôn vinh
những giá trị của nó.
Theo: nongnghiep.vn