Xạ thủ lưu giữ văn hóa nỏ
gỗ của người Cơtu
Với ông,
Pànanh (nỏ gỗ) như một phần máu thịt, là vật báu văn hóa vô giá của đồng bào
Cơtu.
Nỏ đã theo ông suốt những năm tháng kháng chiến gian khổ và
đến khi hòa bình lập lại, cũng chính chiếc nỏ “thần kì” đã đem lại cái ăn cho
gia đình. Vì thế, trách nhiệm lưu giữ bản sắc đặc trưng, phục dựng lại nét văn
hóa nỏ gỗ của đồng bào Cơtu hiện đang trở thành một thách thức lớn đối với ông .
Ông là Bríu Đồ (56 tuổi), người mà đồng bào vùng cao thôn
Bhờ Hôồng 1, xã Sông Kôn, Đông Giang, Quảng Nam truy phong “xạ thủ kiệt xuất”,
bởi ông chính là “xạ thủ vô đối” không chỉ ở làng mà kể cả vùng cao Đông Giang
cũng không ai sánh kịp.
Xạ thủ thời chiến
Từ Thành phố Đà Nẵng, vượt qua quãng
đường dài hơn 130 km đầy gian truân, vất vả, chúng tôi tiếp tục phượt lên những
con dốc cao dựng đứng, những con đường ngoằn ngoèo, khúc khuỷu núi rừng Đông
Giang để tìm về bản làng Bhờ Hôồng 1, nơi xạ thủ nổi tiếng miền sơn cước Bríu
Đồ đang sinh sống. Thấy có người từ dưới xuôi lên, ông gác tay đục đẽo những
công đoạn cuối cùng của chiếc nỏ quay sang bắt chuyện với chúng tôi.
|
Mặc dù không còn sung
sức như thời trai trẻ nhưng Bríu Đồ vẫn là một “xạ thủ” kiệt xuất
của đồng bào Cơ tu
|
Không phải ấm trà mời khách, thay vào đó là bình rượu ủ lâu
năm của một con rắn độc ông từng săn được cách đây chục năm, vừa nhấp chén
rượu, ông vừa kể: “Cái mà các chú vừa thấy là chiếc nỏ mà người Cơtu gọi là nỏ
“thần kì” đấy. Từ xa xưa nó đã theo người Cơtu chúng tôi lên non vượt rừng săn
bắn chim thú. Thời chiến nó cũng theo người Cơtu chúng tôi ra trận giết giặc,
nhìn thô sơ thế chứ chiếc nỏ ấy đã từng giết biết bao nhiêu thằng Tây rồi đó”.
Năm 1968, theo tiếng gọi của non
sông đất nước, cậu bé Bríu Đồ, mới tròn 12 tuổi đã theo cha lên đường nhập ngũ.
Hành trang của 2 cha con đi chinh chiến bấy giờ chỉ là chiếc nỏ gỗ tổ tiên bao
đời truyền lại. “Thời đó nghe đi đánh mấy thằng Tây cao to cướp nước mình thấy
háo hức lắm. Trong một đợt cán bộ dưới xuôi lên tuyên truyền, vận động đồng bào
trên đây lên đường tòng quân đánh giặc, tôi xin cha vào rừng sâu để làm công
tác liên lạc cho các chiến sĩ bộ đội. Do từ nhỏ sống ở nơi rừng núi, thông
thuộc địa hình trong lòng bàn tay nên từ đó tôi có nhiệm vụ mở đường cho bộ đội
băng rừng vượt núi”, Bríu Đồ nhớ lại.
|
Những tấm huy chương ông giành được tại các cuộc thi do tỉnh tổ
chức
|
Rồi lớn lên chút nữa, khi thấy những
chiến sĩ miền xuôi lên đây dùng súng bắn giặc, ông lại muốn được tự tay hạ
những tên đã giày xéo mảnh đất quê hương ông. Nhưng từ nhỏ có biết đến súng ống
là gì, mà cũng chẳng có ai truyền dạy cách sử dụng. Ông tự nhủ, nếu không dùng
được súng đánh giặc thì mình dùng nỏ gỗ giết giặc. “Từ nhỏ tôi đã theo cha vào
rừng săn bắn, được cha huấn luyện nên lên 6 tuổi, tôi đã có thể bắn trúng bia
phát một, nhờ thế khi gặp địch thay vì dùng súng tôi dùng nỏ để hạ chúng. Và
tôi cũng chẳng nhớ có bao nhiêu tên địch đã nằm dưới chân mình, cũng chẳng nhớ
mình đã nã đi bao nhiêu cha răr cắm
vào người kẻ địch”, Bríu Đồ kể tiếp.
Cha răr mà ông nói chính là những mũi tên được tẩm một loại
hóa chất tự nhiên cực độc, chỉ cần tên địch bị bắn trúng sau 10 phút sẽ đột
quỵ, vô phương cứu chữa. Theo ông, những loại tên này được làm từ thân cây lồ
ô, bôi trên mũi tên một loại nhựa cây dại chỉ có ở vùng đất Nam Giang, mỗi lần
sử dụng hết, ông mới vượt rừng lên đó chặt về, chế tạo “vũ khí” giết giặc.
Hòa bình lập lại, ông theo quân tình nguyện Việt Nam lên đường
sang Campuchia giúp nước bạn đánh đổ chế độ diệt chủng Pôn-pốt. Trong đoàn quân
tình nguyện mùa xuân năm 1977, nhiều chiến sĩ tay vác súng dài, súng ngắn nhưng
duy chỉ có chàng thanh niên dân tộc mang trên mình chiếc nỏ gỗ sang nước bạn
chiến đấu. Nhắc đến đây ông bật cười như toát lên một niềm tự hào rất lớn: “Hồi
đó sang Campuchia ít người dân tộc thiểu số như tôi lắm, nhưng đặc biệt chỉ có tôi
dùng nỏ, nhiều chiến binh Campuchia thấy vậy họ ngỡ ngàng lắm, không ít người
nước bạn đã khâm phục người Việt Nam mình dùng nỏ để giết giặc đấy”.
Lưu giữ văn hóa nỏ “thần linh” người Cơtu
Trong căn nhà rông của Bríu Đồ, có hàng
trăm bộ xương của những con thú ông săn được xâu thành từng chuỗi giăng kín cả
trần nhà. Theo ông, đó là tục lệ săn bắt của người Cơtu. Treo những hài cốt con
vật săn bắn được lên như vậy với tâm niệm trong những chuyến đi tới sẽ thu được
nhiều sản vật hơn. Từ những con vật vô cùng mạnh mẽ như voi, heo rừng đến những
loài nhanh nhẹn như chim, sơn dương đều đã từng bị ông bắn hạ.
|
Hàng trăm bộ xương của
những con thú ông săn được xâu thành từng chuỗi giăng kín cả trần nhà
|
Nghe ông kể, dường như cái nghiệp săn bắn đã ăn sâu vào trong máu thịt của ông,
bất kể ban ngày hay ban đêm, thậm chí khi những “xạ thủ” trong làng đã “buông
nỏ”, quay lưng lại với cái nghề săn bắn, ông vẫn âm thầm, lặng lẽ như cố níu
lấy một phần văn hóa săn bắn của đồng bào mình.
Khi chúng tôi hỏi: “Thế làng này bây giờ có ai làm nỏ, bắn
nỏ giỏi như ông không?". Ông ngậm ngùi: “Cả làng bây giờ chắc chỉ còn tôi
ngày ngày đục đẽo nỏ. Không ai dùng thì họ làm nỏ ra làm gì. Vả lại làm nỏ đâu
có dễ, để đẽo ra một chiếc nỏ phải mất cả tháng trời, nhưng chưa chắc đã ưng ý
vì một chiếc nỏ sẽ trở nên “vô dụng” nếu người làm nỏ không khéo tay dác cân đối
cáng nỏ. Cáng nỏ góp một phần không nhỏ đến độ chính xác, nhất là bắn những
điểm bia của xạ thủ”.
Nghe ông kể, dường như nỏ “thần kì” lưu đời hàng trăm năm
của đồng bào Cơtu đang đứng trước bờ vực thất truyền, vì trong làng “xạ
thủ” một thời bấy giờ chỉ còn lại duy nhất một cái tên tâm huyết - Bríu Đồ. Dù
đã bước sang cái tuổi đáng lẽ ra phải được nghỉ ngơi, ấy vậy mà năm nào ông
cũng đại diện huyện miền núi của mình tham gia những cuộc thi do tỉnh tổ chức.
Và chừng ấy năm đi thi, “xạ thủ kiệt xuất” lại mang về những tấm huy chương
danh giá cho huyện nhà. Điều trăn trở của ông chính là việc không có những hậu
bối kế cận, tiếp bước ông lưu giữ 1 nét văn hóa từng gắn chặt với đồng bào Cơtu.
Cứ mỗi chiều bên dòng sông Kông êm ả chảy, người ta thường
bắt gặp hình ảnh của một người đàn ông đắm mình, chăm chú bên những chiếc nỏ
gỗ. Phải chăng ông đang cố giữ lấy, phục dựng lại nét văn hóa Pànanh trên quê
hương mình sinh ra.
Theo giaoduc.net