Độc đáo tranh Đông Hồ
Hồn văn hóa Việt
Chúng tôi đi dọc con đê sông Đuống uốn chảy êm đềm qua
những ngôi làng cổ đất Kinh Bắc với các ngõ làng loanh quanh và những ngôi
nhà cổ mà bức tường gạch nâu mộc cũ đã mọt lõm nhuốm màu thời gian. Tới Đông Hồ,
đây đó thấp thoáng những sân phơi tranh với sắc màu xanh đỏ, với những lấp
loáng sắc điệp. Tất cả khơi gợi những hình ảnh rất đặc trưng của nông thôn
Bắc Bộ càng khiến ta đắm chìm, liên tưởng về một không gian xưa cũ.
Theo lời kể của các truyền nhân Làng tranh Đông Hồ, nghề
làm tranh Đông Hồ ra đời từ thế kỷ 16. Điều đáng nói là dẫu cho một làng nghề
tồn tại đến trên 500 năm nay nhưng vẫn chưa ai nghe nói đến ông tổ làng nghề.
Tất cả tinh hoa dòng tranh dân gian này đều lưu truyền từ bàn tay nghệ nhân
dân gian từ đời này sang đời khác, từ thế kỷ này sang thế kỷ khác. Thời kỳ
cực thịnh của dòng tranh này có lẽ là trước năm 1944. Thời đó, 17 dòng họ
trong làng Đông Hồ đều làm tranh. Ngày xưa, cứ đến tháng Chạp là làng lại mở
đến 5 phiên chợ bán tranh Tết vào những ngày 6, 11, 16, 21, 26. Để chuẩn bị
cho phiên chợ, cả làng tất bật từ tháng bảy âm lịch. Sân nhà, sân đình, triền
đê sông Đuống bừng lên 5 sắc màu cơ bản: sắc đỏ của sỏi son, sắc xanh từ lá
chàm hoặc gỉ đồng để có màu xanh, sắc vàng của hoa hòe, màu đen của rơm nếp
và lá tre, màu trắng óng ánh từ vỏ sò, vỏ điệp. Đây là những màu khá cơ bản,
không pha trộn và vì số lượng màu tương ứng với số bản khắc gỗ, nên thường
tranh Đông Hồ chỉ dùng 4 màu. Bản khắc gỗ để in tranh phải làm bằng gỗ cây
thị thì mới cho ra những bản tranh sắc nét và màu mực mới tươi thắm được. Năm
tháng qua đi, những chợ phiên ngày ấy nay đã không còn nữa.
Thợ khắc gỗ
Nặng lòng giấy dó, màu son
Thời gian cứ mải miết trôi, để lại biết bao nuối tiếc về
một làng tranh Đông Hồ ngày càng mai một. Mấy thập kỷ qua tranh Đông Hồ vẫn
đang sống lắt lay với "cơn gió thị trường”. Đến nay, cũng chưa có thống
kê chính xác số mẫu tranh Đông Hồ có bao nhiêu thể loại. Qua những năm tháng
của 2 cuộc chiến tranh vệ quốc, những bản khắc cổ có giá trị đã bị hư hỏng,
thất lạc rất nhiều. Năm 1967, Sở Văn hóa - Thông tin tỉnh Hà Bắc (cũ) ký hợp
đồng với Nhật Bản thành lập Đội sản xuất tranh. Thời gian đầu đội chỉ in cầm
chừng mỗi tháng được trên dưới 1.000 tờ.
Từ năm 1970 đến 1985, tranh Đông Hồ được xuất sang 12
nước. Thời kỳ này, việc xuất khẩu tranh đạt được kết quả khả quan nhất… Sau
hơn nửa thiên niên kỷ tồn tại và phát triển từ thời 17 dòng họ làm tranh, đến
nay hầu hết những người làm tranh đều bỏ nghề, chỉ còn vẻn vẹn vài ba gia
đình duy trì nghề làm tranh Đông Hồ. Trong đó có 2 gia đình là nghệ nhân
Nguyễn Đăng Chế và nghệ nhân Nguyễn Hữu Sam.
Như câu chuyện của dòng họ Nguyễn Đăng với 20 đời nối
nghiệp mà người cầm trịch hiện nay là nghệ nhân Nguyễn Đăng Chế đã đầu tư hơn
2,5 tỉ đồng xây dựng Trung tâm lưu giữ, bảo tồn tranh dân gian Đông Hồ tại xã
Song Hồ. Ông cũng là người lưu giữ hàng trăm bản khắc, khuôn tranh, trong đó
có nhiều bản khắc gỗ hiếm quý cách đây trên 200 năm và cả những bức tranh cổ.
Nghệ nhân Nguyễn Đăng Chế chia sẻ: Tranh Đông Hồ có đề tài
tranh khá phong phú, gắn liền với đời sống, phong tục, tập quán, tín ngưỡng
và nhất là phản ánh chân thật đời sống của người dân Việt Nam. Đến thời
kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ, tranh Đông Hồ vẫn dựa
trên những đường nét, chất liệu, màu sắc cũ nhưng đã phát triển thêm một bậc
là miêu tả các đề tài hiện thực lúc bấy giờ. Hiện tại nghệ nhân Nguyễn Đăng
Chế đang lưu giữ khoảng 20 mẫu tranh Đông Hồ do một người nước ngoài yêu
tranh Đông Hồ gửi tặng. Theo nhận định của ông Chế đây đều là các mẫu tranh
lạ mà ông chưa từng thấy. Điều này khẳng định thêm các mẫu tranh Đông Hồ qua
các thời kỳ là rất đa dạng nhưng những biến cố của lịch sử đã làm mai một dần
sự phong phú đó, cũng như những giá trị vốn có của dòng tranh dân gian Đông
Hồ…
Theo đại đoàn kết
|