Trên cung đường Hạnh Phúc
Đường lên cao nguyên đá lắm quanh co, nhọc nhằn, mà anh bạn người Hà
Giang cùng đi với chúng tôi vẫn nói vui “vừa là ước ao, vừa là ác mộng”
đối với dân du lịch. Mặc dù rất khó khăn, hiểm trở, nhưng không mơ ước
sao được, khi đây là một trong những cung đường có cảnh quan hùng vĩ
bậc nhất vùng núi phía bắc, đưa ta qua những địa danh đầy hấp dẫn, như
Cổng trời Quản Bạ, núi đôi Tam Sơn, dốc Bắc Sum, cột cờ Lũng Cú, dinh
thự họ Vương (vua Mèo), phố cổ Đồng Văn, đèo Mã Pí Lèng, chợ phiên Mèo
Vạc…; rồi những bản làng Mông, Tày, Dao, Lô Lô… lẩn khuất trong sương
núi, bên những thửa ruộng bậc thang uốn lượn đẹp như tranh. Cái tên
Hạnh Phúc được Bác Hồ đặt từ hơn nửa thế kỷ trước cho tuyến đường này,
đúng theo mọi nghĩa, đã mang lại cuộc sống ấm no, văn minh cho bà con
của một vùng núi đá rộng lớn xưa kia bị chia cắt, biệt lập, chìm trong
đói nghèo, lạc hậu.
Chỉ kịp ghé thăm Hợp tác xã (HTX) dệt thổ cẩm Lùng Tám (xã Lùng Tám,
huyện Quản Bạ) và Khu di tích dinh thự nhà Vương (xã Sà Phìn, huyện
Đồng Văn), nhưng chúng tôi vẫn tha hồ trầm trồ, ngạc nhiên trước sự
tiến bộ, nhanh nhạy của người Mông ở đây. Nghề truyền thống dệt lanh,
nhuộm vải, thêu thùa hoa văn thổ cẩm của người Mông thì vùng nào cũng
có, nhưng đồng bào sống được với nghề và có những cải tiến phù hợp với
thị hiếu thị trường, cũng như tìm đường xuất khẩu tới hơn 20 nước trên
thế giới, thì mô hình ở Lùng Tám đáng được học hỏi, nhân rộng. Từ chỗ
chỉ có 10 xã viên duy trì vài khung dệt vào năm 2000, tới nay HTX đã có
hơn 130 khung dệt liên tục hoạt động, mang lại thu nhập ổn định, thậm
chí còn có cả tài khoản trên mạng xã hội Facebook để giới thiệu nghề
truyền thống kết hợp với quảng bá du lịch. Để có được điều đó, nghệ
nhân người Mông Vàng Thị Mai cùng chồng là Sùng Mí Quả từng đi khắp
vùng vận động bà con tham gia trồng lanh, dệt vải; mang sản phẩm về các
triển lãm, hội chợ dưới miền xuôi… Bà Mai bảo, người Mông xưa có câu
hát: “Gái đẹp không biết làm lanh cũng xấu/ Gái xinh chưa biết cầm kim
là hư”. Đến nay, dù tính ứng dụng của vải thổ cẩm có ít nhiều thay đổi,
nhưng thấy được giá trị của nghề dệt, nghề thêu đối với đời sống người
Mông, nên bà vẫn tâm niệm phải gìn giữ và phát huy.
Tại Khu di tích nhà Vương, trong bộ trang phục truyền thống, duyên
dáng, nhiều mầu sắc, nữ hướng dẫn viên du lịch người Mông Vương Thị Chở
cuốn hút nhiều du khách bởi tài ăn nói, kiến thức lịch sử, văn hóa có
chiều sâu. Chị Chở là một trong số nhiều hướng dẫn viên được chính
quyền địa phương hỗ trợ kinh phí, tạo điều kiện cho đi tập huấn về làm
du lịch.
Ở Mậu Duệ, Yên Minh, Đồng Văn, nhiều gia đình còn biết cách làm kinh
tế từ chính nét đặc sắc của văn hóa dân tộc mình, như trồng tam giác
mạch làm điểm chụp ảnh, làm bánh, cho thuê trang phục… Anh Sùng Văn
Lùng ở xã Sủng Là, huyện Đồng Văn chia sẻ: “Tam giác mạch trước kia chỉ
để chăn nuôi và cứu đói, giờ khách thích, nên người Mông mình trồng
thêm thật nhiều cho đẹp. Sau lễ hội tam giác mạch vừa qua, lượng khách
đến đông hơn, nhất là vào cuối tuần”. Nay, cũng như nhiều hộ khác ở
Sủng Là, gia đình anh Lùng thu 5-10 nghìn đồng mỗi lượt khách vào ruộng
tam giác mạch để chụp ảnh.
Dẫu cuộc sống của người dân nơi địa đầu phía bắc còn nghèo khó, gian
nan, nhưng mầm “Hạnh phúc” đang sinh sôi, nảy nở trên miền đá sỏi,
chúng tôi cảm nhận rõ rệt điều ấy qua những ruộng bậc thang lúa mới,
nương ngô xanh tươi, đàn em nhỏ mắt xoe tròn thân thiện vẫy chào khách.
Theo nghiên cứu của Tiến sĩ Trần Thu Thủy (Bảo tàng Dân tộc học Việt
Nam), người Mông di cư về Việt Nam cách đây khoảng 300 đến 500 năm,
quen sinh sống trên những triền núi cao, canh tác nương rẫy, sau này họ
biến sườn đồi, sườn núi thành ruộng bậc thang để trồng lúa nước. Người
Mông là một dân tộc rất đặc biệt, họ thích nghi với mọi điều kiện, hoàn
cảnh sống. Hiện nay, dân tộc Mông phân bố ở các tỉnh miền núi phía bắc
như: Hà Giang (nơi người Mông định cư đông nhất, chiếm khoảng 1/3 tổng
số), Quảng Ninh, Lạng Sơn, Bắc Cạn, Cao Bằng, Tuyên Quang, Phú Thọ,
Yên Bái, Lào Cai, Lai Châu, Điện Biên, Sơn La, Hòa Bình, Thanh Hóa,
Nghệ An… và một bộ phận đã di cư vào lập nghiệp, sinh sống ở các tỉnh
Tây Nguyên, như Đác Lắc, Lâm Đồng. Tuy có nhiều nhóm người Mông khác
nhau, nhưng về ngôn ngữ và văn hóa cơ bản là một, sự phân biệt giữa các
nhóm này chủ yếu dựa trên trang phục truyền thống của người phụ nữ.
Mặc dù chưa có nhiều công trình nghiên cứu chuyên sâu, đầy đủ và chính
thống về tộc người này, song có thể khẳng định, người Mông có đời sống
tinh thần rất phong phú, với nền văn hóa nghệ thuật dân gian, phong tục
tập quán… đồ sộ, độc đáo. Trong lịch sử, bao thế hệ người Mông đã một
lòng theo Đảng, góp công, góp của xây dựng và bảo vệ các vùng đất phên
dậu biên giới của Tổ quốc.
Giữ gìn, phát huy các giá trị văn hóa
Cũng như nhiều dân tộc thiểu số, đời sống văn hóa của người Mông có
nhiều thay đổi theo thời gian, và đến nay cũng đối diện nguy cơ bị pha
tạp, mai một. Nhiều làn điệu dân ca, điệu múa cổ truyền, nhạc cụ dân
tộc, lễ hội dân gian, một số nghề thủ công truyền thống và phương tiện
sinh hoạt hằng ngày đã không còn phổ biến. Trước thực trạng đó, tỉnh Hà
Giang xác định công tác bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền
thống đặc sắc, trong đó có dân tộc Mông, là một trong những nhiệm vụ
quan trọng trong thời kỳ hội nhập, để thực hiện có hiệu quả Nghị quyết
T.Ư 5 (khóa VIII) của Đảng về “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc”. Bên cạnh công tác trùng
tu, tôn tạo, nâng cấp các di tích lịch sử, văn hóa, các công trình,
kiến trúc nghệ thuật mang đậm nét văn hóa của người Mông trên địa bàn,
như: Dinh thự họ Vương, Phố cổ Đồng Văn; ngành văn hóa và chính quyền
địa phương còn có chính sách hỗ trợ, phát triển các làng nghề truyền
thống như: dệt thổ cẩm, chế tác khèn Mông, nghề rèn, đúc lưỡi cày, nghề
đan quẩy tấu (gùi)… Bên cạnh đó là nâng cao vai trò của Hội Nghệ nhân
dân gian, mở các lớp truyền dạy khèn Mông cho thế hệ trẻ.
Do đồng bào Mông ở Hà Giang sinh sống nhiều tại khu vực giáp biên nên
tỉnh đã xây dựng Đề án về phát triển kinh tế biên mậu, vừa thúc đẩy
thương mại, vừa tạo sản phẩm du lịch. Hà Giang cũng là tỉnh làm tốt
việc khôi phục, phát triển, nâng tầm các lễ hội truyền thống của người
Mông, như “Vỗ mông” ở Mèo Vạc, Gầu Tào, Chợ tình Khâu Vai, lễ hội khèn
Mông, Ngày hội Văn hóa dân tộc Mông, lễ hội hoa Tam giác mạch... gắn
với nhiều hoạt động văn hóa độc đáo, như: thi dệt vải lanh, múa khèn,
các trò chơi dân gian, hát dân ca, dân vũ; giới thiệu về lễ nghi ăn
hỏi, ma chay, kỹ thuật “cày trên nương đá”, thổ canh hốc đá, xếp tường
rào đá; ý nghĩa về cây lanh, cây khèn Mông trong đời sống sinh hoạt,
tâm linh; giao lưu ẩm thực của người Mông… Hòa với dòng chảy của cuộc
sống hiện đại, nhiều vùng, người Mông giờ không chỉ sống phụ thuộc vào
nông nghiệp thô sơ, họ đã biết mang nét đẹp của dân tộc mình để làm du
lịch, quảng bá với du khách trong và ngoài nước.
Tại Ngày hội văn hóa dân tộc Mông toàn quốc lần thứ II năm 2016 được
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch phối hợp tỉnh Hà Giang tổ chức vừa qua,
đồng chí Nguyễn Văn Bình, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư T.Ư Đảng,
Trưởng Ban Kinh tế T.Ư, Trưởng Ban Chỉ đạo Tây Bắc đã khẳng định: Đây
là sự kiện có ý nghĩa chính trị to lớn, nhằm quảng bá hình ảnh con
người và cuộc sống của đồng bào dân tộc Mông; giới thiệu nét đẹp văn
hóa truyền thống ở địa phương có người Mông sinh sống tới cộng đồng dân
tộc anh em và khách du lịch quốc tế. Ngày hội còn tô điểm cho vùng đất
Hà Giang, nơi có cộng đồng người Mông tập trung sinh sống nhiều nhất.
Gần 1.000 nghệ nhân, diễn viên người Mông từ 13 tỉnh trong toàn quốc,
mang đến ngày hội những tinh hoa của văn hóa, phong tục vùng miền.
Nghệ nhân khèn Mông Giàng Chúng Sính ở Mộc Châu, Sơn La về vui hội, bảo
rằng: “Người Mông có cái lý là phải giữ được văn hóa cha ông để lại.
Dù đi núi này hay rừng khác nhưng cứ nghe tiếng khèn, cứ nhìn thấy sắc
mầu thổ cẩm là phải bắt chuyện, là phải hỏi han, để xem đồng bào còn
khó khăn gì thì mình giúp đỡ”. Ngày hội được tổ chức chu đáo, hấp dẫn
với đội ngũ tình nguyện viên, cán bộ văn hóa, đông đảo nghệ sĩ, diễn
viên, nhưng đồng bào Mông vẫn là nhân vật chính, với những hoạt động
văn hóa diễn ra tự nhiên, sinh động, là dịp để du khách chiêm ngưỡng,
khám phá những nét văn hóa đặc sắc của tộc người chỉ sinh sống trên
“những đỉnh núi du ca”.
Hà Giang có 12 di sản văn hóa phi vật thể của đồng bào các dân tộc
thiểu số được công nhận Di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia; trong
đó, văn hóa người Mông góp mặt các di sản: Lễ hội Gầu Tào, nghệ thuật
khèn Mông, kỹ thuật trồng lanh và dệt vải lanh, tri thức canh tác hốc
đá của cư dân Cao nguyên đá. Đặc biệt, UBND tỉnh Hà Giang và ngành chức
năng đang phối hợp các cơ quan lập hồ sơ trình UNESCO công nhận “Tri
thức canh tác hốc đá của cư dân Cao nguyên đá Hà Giang” là di sản văn
hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Chỉ vài ngày ở Hà Giang là chưa
đủ để đi và hiểu, nhưng cũng khiến chúng tôi kịp cảm nhận và yêu mến
nét đẹp văn hóa, tình người nơi đây. Cao nguyên đá xa xôi nhưng cũng
thật gần gũi, ở đó, dòng văn hóa dân tộc Mông tiếp tục chảy, góp phần
vào dòng chảy chung của văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc.
Theo: nhandan.com.vn