Dân
tộc Nùng gồm các nhóm địa phương: Nùng Xuồng, Nùng Giang, Nùng An, Nùng
Lòi, Nùng Phàn Sình, Nùng Cháo, Nùng Inh, Nùng Quy Rịn, Nùng Dín. Người
Nùng thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái của hệ ngôn ngữ Thái - Kadai. Nguồn
sống chính của người Nùng là lúa và ngô. Họ kết hợp làm ruộng nước ở
các vùng khe dọc với trồng lúa cạn trên các sườn đồi.
Các
ngành nghề thủ công của người Nùng đã phát triển, phổ biến nhất là nghề
dệt, mộc, đan lát, rèn, gốm. Người Nùng thích ăn các món xào mỡ lợn.
Món ăn độc đáo và được coi trọng là sang trọng của người Nùng là “khau
nhục”. Tục mời nhau uống rượu chéo chén có lịch sử từ lâu đời, nay đã
thành tập quán của người Nùng. Người Nùng có một kho tàng văn hóa dân
gian phong phú và có nhiều làn điệu dân ca đậm đà màu sắc dân tộc. Tiếng
Sli giao duyên của thanh niên Nùng hòa quyện vào âm thanh tự nhiên của
núi rừng gây ấn tượng sâu sắc cho những ai nghe. Then là làn điệu dân
ca, có hình thức biểu diễn đã làm rạo rực tâm hồn bao người. Lễ hội nổi
tiếng thu hút được nhiều người, nhiều lứa tuổi khác nhau, mà người Nùng
gọi là “Lùng tùng” (hội xuống đồng) được tổ chức vào tháng giêng hàng
năm. Người Nùng ăn cơm tẻ là chủ yếu. Trong những ngày lễ, tết, người
Nùng thường làm nhiều loại bánh từ gạo và có tục uống rượu bằng thìa.
Nam, nữ đến tuổi
trưởng thành thường hay bịt một chiếc răng bằng vàng ở hàm trên và như
thế được xem là làm đẹp, người sang trọng. Phụ nữ mặc áo năm thân và cài
một hàng cúc bằng nút vải phía bên nách phải. Tùy từng nhóm Nùng địa
phương mà áo dài, ngắn, rộng, hẹp khác nhau. Nam, nữ đều mặc một loại
quần nhuộm màu chàm, cạp to, ống rộng, dài tới tận mắt cá chân. Phụ nữ
Nùng thường đeo tạp dề trước bụng, khi gồng gánh còn mang thêm miếng nệm
vai. Điểm khác nhau giữa các nhóm, một trong những biểu hiện là cách
đội khăn và các loại khăn trang trí khác nhau đôi chút.
Người
Nùng thường ở nhà sàn và nhà nửa sàn nửa đất, trong đó nhà sàn là kiểu
nhà truyền thống ưa thích của họ. Nhà thường khá to, rộng, có ba gian,
vách thường bằng gỗ và lợp ngói máng. Nhà đất hiện chiếm khá phổ biến ở
vùng người Nùng. Nhà được chia làm hai phần bởi vách ngăn, trừ một lối
đi ở gian giữa, phần trong đặt bếp, nơi sinh hoạt của phụ nữ trong gia
đình. Phần ngoài, dành cho nam giới và đặt bàn thờ tổ tiên. Trong gia
đình, quan hệ giữa cha chồng, anh chồng với nàng dâu có sự cách biệt
nghiêm ngặt. Theo phong tục Nùng, dù là con anh, con em, con chị... ai
nhiều tuổi hơn được gọi là anh, là chị. Người Nùng có thói quen ít khi
gọi thẳng tên người ông, người cha mà thường gọi theo tên của đứa cháu
đầu, con đầu của họ. Khi đặt tên con phải tuân theo hệ thống tên đệm của
dòng họ. Việc dựng vợ, gả chồng do bố mẹ quyết định trên cơ sở môn đăng
hộ đối giữa hai gia đình, sự ưng thuận của con cái và lá số của đôi nam
nữ. Người phụ nữ khi đã đi lấy chồng xem như hoàn toàn phụ thuộc nhà
chồng.
Người
Nùng thờ cúng tổ tiên trong nhà. Bàn thờ tổ tiên có bài vị, lư hương và
được đặt vào nơi trang trọng nhất. Ngoài ra, mỗi nhà còn thờ bà mụ mẹ
Hoa (Thần bảo hộ trẻ nhỏ), mẹ Cửa (Thần trông nhà). Vào những ngày đầu
tháng, ngày rằm họ thường đốt hương. Ngày lễ, tết có cúng chè, rượu và
các món ăn. Người Nùng cúng ma sàn và các cô hồn đầu ngõ vào dịp Tết
Nguyên đán. Những gia đình cùng một dòng họ thì cùng chung một miếu thờ
thổ công, thổ địa. Các thầy tào, thầy mo theo ý tưởng từ xưa họ có khả
năng tiếp xúc với các loại ma thần nên được gọi là “người mắt sáng”. Họ
hành nghề cúng bái, cầu sự tốt lành cho người dân, được mọi người kính
nể. Trước người Nùng dùng chữ Hán, chữ Nôm Nùng để ghi chép thơ ca và
truyện cổ dân gian. Hiện nay, phần lớn người Nùng đều không biết viết
chữ của dân tộc mình. Mọi người đều được học chữ Quốc ngữ của người
Việt.
Ở
tỉnh ta, 7 huyện, thành phố đều có người Nùng sinh sống, làm phong phú
thêm bản sắc 22 dân tộc anh em. Người Nùng trong tỉnh giờ đây đang tập
trung phát triển kinh tế, xây dựng nông thôn mới nhưng vẫn giữ gìn và
phát huy được bản sắc văn hóa dân tộc của mình./.
Theo dulichvn.org.vn