Nhạc
sĩ Văn Chung (ảnh) là một trong hai nhạc sĩ vừa được Nhà nước trao tặng
giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học - nghệ thuật. Ông thuộc lớp nhạc sĩ
đặt những viên gạch đầu tiên tạo dựng nên diện mạo và thành tựu của nền
âm nhạc mới Việt Nam. Lớp nhạc sĩ này không nhiều, có thể đếm trên đầu
ngón tay, trong đó nhạc sĩ Văn Chung là một nhân vật nổi bật. Ông tên
thật là Mai Văn Chung, sinh ngày 20-6-1914, quê ở Phù Tiên, Hưng Yên.
Ông mất năm 1984 tại Hà Nội, thọ 71 tuổi.
Năm 1935, khi 21 tuổi, Văn Chung
bắt đầu sáng tác. Đó là bài Tiếng sáo mục đồng, dựa trên âm hưởng và
cách tiến hành giai điệu của bài Xe chỉ luồn kim, dân ca quan họ Bắc
Ninh. Sau này ông viết lại ca từ thành bài Tiếng oanh vàng. Trong thời
gian kế tiếp sau đó, năm nào ông cũng sáng tác một vài bài. Có thể kể
đến các bài Cười trong nắng xuân (1936), Khúc ca ban chiều, Bên hồ liễu
(1937), Tiếng thông reo, Thiếu phụ hoài xuân (1938), Hồ xuân và thiếu
nữ, Tiếng trúc tuyệt vời và đáng chú ý là bài Bóng ai qua thềm (1939)
khá phổ biến. Hồi đó tân nhạc còn chịu ảnh hưởng nhạc Tây phương, nên
bài Bóng ai qua thềm được Văn Chung viết theo điệu Tango Habanera - một
loại vũ điệu của Cuba.
Khoảng 1939-1940, để có điều kiện
phổ biến sáng tác của nhạc sĩ trong nước, ông cùng nhạc sĩ Lê Yên (tác
giả Ngựa phi đường xa, Bộ đội về làng) và nhạc sĩ Doãn Mẫn (tác giả Biệt
ly) lập ra nhà xuất bản âm nhạc đầu tiên của Việt Nam lấy tên là TRICÉA
(tức là 3 chữ C và 3 chữ A) là những nguyên âm đầu của câu tiếng Pháp
“Collection des Chants Composés par des Artistes Annamites Associés” có
nghĩa là “Nơi tập hợp ca khúc của nhạc sĩ Việt Nam”.
Sau Cách Mạng tháng Tám, ông phục
vụ ở Đài Tiếng nói Việt Nam. Toàn quốc kháng chiến bùng nổ, ông cùng với
nhiều văn nghệ sĩ khác rời Hà Nội, lên chiến khu Việt Bắc, tham gia văn
nghệ quân đội. Trong năm 1947 (năm đầu tiên ông tham gia kháng chiến),
gặp gỡ những người nông dân tay cày tay súng đánh giặc, ông viết bài Hò
dân cày được nông dân rất yêu thích. Năm 1948, ông viết Lập
chiến công. Năm 1949, ông viết Đợi anh về, (phổ thơ Simônôp, Tố Hữu
dịch). Năm 1950, viết Pỉ noọng ơi! (tức Anh em ơi!). Đáng chú ý, năm
1954 (năm cuối của cuộc kháng chiến chống Pháp) ông viết bài Quê tôi
giải phóng tặng chiến sĩ Đại đoàn 308 trong những ngày về tiếp quản Hà
Nội. Một bài hát rộn ràng không khí hòa bình và đậm đà âm hưởng dân tộc.
Trong thời gian kháng chiến chống
Mỹ, Văn Chung sáng tác khá nhiều, đáng chú ý có các bài như sau: Bài ca
trên đường thống nhất (1955), Gái thôn Đoài, trai thôn Thượng (1957),
Tính hẹn cùng tình (1958), Từng bước đi vững chắc (1964), Ba cô gái đảm
(1966)… Trong đó, Gái thôn Đoài, trai thôn Thượng là bài hát được nam nữ
thanh niên rất yêu thích. Bài hát nói về tinh thần lao động của giới
trẻ nông thôn ra sức thi đua đẩy mạnh sản xuất, vỡ đất hoang, làm thủy
lợi. Về cấu trúc âm nhạc, Văn Chung đã khéo léo vận dụng kiểu đối đáp
trong lối hát dân gian Việt Nam và dùng điệu thức ngũ cung để đưa vào
bài hát tạo nên giai điệu rất gắn bó với âm hưởng dân ca đồng bằng Bắc
bộ. Các em nhỏ rất yêu thích các bài Lỳ và Sáo (1947), Lượn tròn
lượn khéo (1959)… do Văn Chung sáng tác. Năm 1947 nghe tin con gái nhỏ
bị chết trong một trận ném bom của địch, ông rất đau xót, nhớ lại lúc
dạy con tập đếm “một ông sao sáng, hai ông sáng sao…”. Và hôm đó ông
viết bài Đếm sao, trở thành bài hát nổi tiếng.
Trong sự nghiệp văn nghệ của mình,
Văn Chung có khá nhiều sáng tác thành công về nông dân từ trẻ em đến
người lớn, nên thường được gọi là “nhạc sĩ của nông thôn”.
Nhạc sĩ TRƯƠNG QUANG LỤC |