Nghệ nhân của rừng
Nói đến làng Đăk Wớt (Hơ Moong, Sa Thầy, Kon Tum) ngày nay, không thể
không nhắc đến đội nghệ nhân dân gian của làng với 26 thành viên. Họ đã
từng đem bản sắc văn hoá độc đáo của buôn làng mình, dân tộc mình tới
giới thiệu với bạn bè thế giới tại Mỹ, Hàn quốc, Malaysia… Các cơ quan quản lý, nghiên cứu của Trung
ương và địa phương như Viện nghiên cứu văn hóa dân gian; Bảo tàng dân
tộc học Việt Nam; Cục di sản Văn hóa, Bộ Văn hóa -
Thể thao & Du lịch đã trực tiếp nghiên cứu và đánh giá đây là một đội nghệ nhân độc đáo và
có nhiều nét riêng biệt trong khu vực và trong cả nước. Và, khi nhắc
đến những nghệ nhân chân đất ấy, càng không thể không nhắc tới linh hồn
của đội là một người đàn ông Ba Na mang trong trái tim mình niềm tự hào
dân tộc và điệu chiêng xoang đắm say rừng núi.
Năm 1952 chính tại ngôi làng này, một bé trai ra đời, được đặt tên là A
Thút. Cha chú bé là ông A Bek, một nghệ nhân chiêng lão luyện của làng
và mẹ là bà Y Lang, cô gái Ba Na hát dân ca rất hay múa xoang rất đẹp.
Mê chiêng từ nhỏ, cậu bé Ba Na ấy đã luôn theo sát bác A Thim và cha A
Bek của mình trong mỗi lần đội chiêng làng vào hội. Chẳng mấy chốc, A
Thút đã thành thạo những bài chiêng truyền thống của dân tộc mình.
Lớn lên theo cùng bao nhiêu biến động của buôn làng và thời cuộc, lúc
thiếu thời, A Thút đã cùng với một số thanh niên trong làng vượt rừng
gùi lương thực tiếp tế cho bộ đội. Bị kẻ địch lùng bắt, cha mẹ gửi A
Thút theo học tại trường thiếu sinh quân Plei Ku rồi sang trường Trung
học Nguyễn Du tận Ban Mê Thuột. Sau giải phóng, A Thút về lại quê nhà.
Lúc này, làng Đăk Wớt dời về lại nơi nguyên gốc là xã Hà Mòn thuộc huyện
Đăk Hà, bên tả ngạn sông Pô Kô, cách thị xã Kon Tum chừng 20 cây số. Ở
đây A Thút được giao phụ trách Chi hội Thanh niên xã, rồi Phó ban Văn
hóa xã, rồi đại biểu HĐND xã. Đến tháng 4/2005, những cư dân của làng
Đăk Wớt lại một lần nữa rời ngôi làng cũ để di cư sang phía hữu ngạn
sông Pô Cô, nhường đất cho công trình hồ thuỷ điện PlêiKroong.
A Thút - “báu vật sống” của đại ngàn
Xã mới Hơ Moong được thành lập với năm cụm dân cư khang trang. A Thút
được giao nhiệm vụ Phó Chủ tịch phụ trách văn hoá, xã hội của xã - một
nhiệm vụ biết mấy khó khăn trên hành trình tái định cư trên đất mới. Bao
năm vừa làm cán bộ địa phương, vừa tham gia lao động sản xuất nông
nghiệp cùng bà con đồng tộc quanh vùng, A Thút vẫn luôn vương vấn trong
lòng ký ức về những ngày hội lễ, những đêm sử thi, những làn điệu dân ca
dân vũ và đặc biệt là âm vang tiếng chiêng, tiếng trống trầm bổng đồng
vọng khắp làng trên buôn dưới. Anh nhớ mãi hình ảnh bà con trong những
năm chiến tranh lưu tán, dẫu phải bỏ lại buôn làng cùng ruộng nương
nhưng người già vẫn gói buộc kỹ càng bộ chiêng quý của làng mang theo.
Đem chiêng đi đánh xứ người
Cuộc đời A Thút thật sự có ý nghĩa và bước sang một trang mới vào năm
2001, khi đó, dự án “Điều tra, sưu tầm Sử thi Tây Nguyên” do Viện Nghiên
cứu văn hóa dân gian (nay là Viện Khoa học xã hội Việt Nam) tổ chức,
mời anh tham gia đoàn sưu tầm. Thật may mắn, cụ A Bek - cha của A Thút
là người biết hát kể sử thi hay còn được gọi là kể Hơ mon. Cụ là một
trong những người hiếm hoi ở Tây Nguyên được công nhận là nghệ nhân diễn
xướng sử thi Ba Na. Cùng với cha mình, A Thút âm thầm tìm hiểu, dịch
nghĩa các bài Hơ mon cổ để truyền bá những giá trị nghệ thuật, văn hoá
độc đáo của sử thi Tây nguyên cho công chúng. Cùng với đội chiêng xoang,
A Thút mơ sao cho tiếng chiêng của buôn làng mình được vang xa, bay cao
cho mọi người mọi nơi biết đến.
Đội chiêng của Đăk Wớt
Và rồi, mơ ước đưa tiếng rừng, tiếng núi được bay cao, vang xa của
người nghệ nhân Ba na ấy đã thành hiện thực. Niềm vui vỡ òa khi anh cùng
16 nghệ nhân làng mình được chọn sang Hợp chủng quốc Hoa Kỳ theo chương
trình “Mê Kông - dòng sông kết nối” năm 2007. Ở đó, đoàn của anh không
những làm cho người nghe ngẩn ngơ bởi những làn điệu trống chiêng độc
đáo mà còn khiến thiên hạ thán phục với việc chỉ chiếc rìu thô sơ mà đẽo
nên con thuyền độc mộc tinh xảo cũng như trổ tài đan lát các vật dụng
mỹ nghệ chỉ từ tre nứa đơn sơ… Bạn bè thế giới từ chỗ ngạc nhiên đã thấy được cái hay, cái đẹp của một loại hình nghệ
thuật đã được tôn vinh di sản. Tiếng chiêng xoang đến từ núi rừng Tây
Nguyên hùng vĩ có sức mời gọi bạn bè quốc tế cùng tham dự trong nhịp
bước thân thiện, rộn ràng.
Niềm vui nối tiếp niềm vui. Tháng 6/2008, anh lại cùng đoàn nghệ nhân
Việt Nam đến Thủ đô Kualar Lumpuar của Malaixia biểu diễn và dự hội thảo
“Văn hóa truyền khẩu các nước Asean”. Tháng 10 năm ấy, A Thút lại cùng
10 nghệ nhân khác đi Hàn Quốc tham dự “Festivai dân ca và cồng chiêng”. Ở
tất cả các cuộc liên hoan quốc tế này, đoàn Việt Nam đều được cấp bằng
Chứng nhận Nghệ nhân một cách trang trọng.
Trong suốt bao năm qua, A Thút đã cùng đội chiêng của mình tham gia hầu
hết các Liên hoan cồng chiêng trong cả nước. Từ những hoạt động không
biết mệt mỏi ấy, A Thút đã nhận được nhiều bằng khen giấy khen của các
cấp, các ban ngành, đơn vị... Đây chính là niềm động viên cho anh ngày
càng có nhiều đóng góp mới trong các hoạt động văn hóa dân gian.
Chất nghệ sỹ trong con người A Thút là vậy, nhưng với vai trò là một
Phó Chủ tịch phụ trách văn hoá - xã hội của một xã thuộc diện “vùng 3” -
vùng đặc biệt khó khăn của tỉnh Kon Tum, anh cũng đã có nhiều đóng góp
xứng đáng cho chính quyền và nhân dân nơi đây. Bà con Hơ moong sau khi
định cư trên đất mới vẫn còn đối mặt với biết bao thiếu khó. Đã vậy, tà
đạo Hà Mòn từng len lỏi, đeo bám cuộc sống tinh thần của bà con như vòi
bạch tuộc đã theo sang đất mới khiến cuộc sống càng nghẹt thở.
Cùng với tập thể lãnh đạo Đảng uỷ, HĐND, UBND xã và các chiến sỹ an
ninh Công an tỉnh Kon Tum, Phó Chủ tịch A Thút đã đến từng buôn làng để
vận động bà con từ bỏ tà đạo, từ bỏ những hoạt động làm hoen danh một
vùng quê giàu truyền thống. Trong những tháng ngày khó khăn ấy, những
chiến sỹ Công an tỉnh Kon Tum đã luôn ở bên cạnh bà con, chia sẻ cùng
họ những băn khoăn, nghi ngại, động viên buôn làng mở lòng đón nhận
những người lầm đường lạc lối.
Và, công sức của các anh đã không uổng phí khi những vạt dã quỳ nở vàng trên rẫy, báo hiệu Xuân về thì nhiều gia đình đã chuyển đồ đạc đưa con cái trở về với buôn làng, trở về với cuộc
sống đời thường. Nhịp cồng, tiếng chiêng lại được ngân vang trong bình
yên, báo hiệu niềm vui, nỗi buồn cộng cảm của mỗi cộng đồng làng.
Đưa hồn Tây Nguyên vang xa
Ngày nay, làng Đăk Wớt cùng nhiều buôn làng khác vẫn lặng lẽ yên bình
bên triền sông Pô Kô thượng nguồn lòng hồ thủy điện PleiKroong. Bà con
nơi đây vẫn còn nhiều thiếu khó. Tuy nhiên những ai có dịp về thăm làng
Đăk Wớt những ngày xuân này, nếu muốn thưởng lãm, sẽ có ngay một đội
nghệ nhân tại chỗ dưới sự tổ chức của A Thút sẵn sàng biễu diễn dưới mái
nhà rông bên bóng tỏa cây đa già cổ thụ uy nghiêm. Tất cả đều trưởng
thành từ các lớp học do A Thút dày công tổ chức và hướng dẫn.
Mỗi dịp chuẩn bị cho lễ hội hoặc đi lưu diễn ở đâu đó, A Thút lại mang
những bộ chiêng, trong đó có bộ rất quý, để cho làng tập luyện. Không
những thế, anh còn lùng mua những bộ chiêng từ bên Lào mà ngày xưa người
làng vốn có nhưng đã bán mất đi, hoặc mất trong chiến tranh. Sưu tầm
chiêng mãi đến giờ, A Thút có trọn 3 bộ chiêng quý với trên 30 cái cả
thảy, trị giá trên 500 triệu đồng. Theo đó, bộ chiêng quý chỉ mang ra
đánh những ngày lễ hội lớn, 2 bộ còn lại thì mang ra dạy cho thanh niên
làng.
Bộ chiêng quý đó, vào năm 1983, A Thút đã phải đổi ba con bò, một tài
sản rất lớn lúc bấy giờ. Năm ấy làng Đăk Wớt mất mùa, mọi người dân
trong làng có bao nhiêu chiêng, ché đều mang ra bán hoặc đổi lấy lương
thực. Chứng kiến cảnh ấy, A Thút không đành lòng. Anh đã quyết tâm để
mua lại bộ chiêng cho bằng được, dù đã bán đi gần hết tài sản trong gia đình, kể cả mấy con bò.
Không chỉ cố gắng truyền dạy cồng chiêng cho lớp trẻ, A Thút còn thắp
lửa đam mê cho cậu con trai A Thảo. Thảo hiện là một tay chiêng không
thể thiếu trong dàn chiêng, đã được theo cha đi nhiều hội diễn quốc tế.
Với niềm đam mê nhiệt huyết, với ư thức truyền đời giữ gìn bản sắc văn
hóa của cá nhân và gia đình A Thút, chắc chắn tiếng cồng chiêng Tây nguyên sẽ còn vang xa, bay cao hơn nữa.
Giờ, bên bếp củi, A Thút ôm cây đàn tinh ninh và ngân nga bài dân ca
truyền thống của dân tộc Ba Na mà anh mới sưu tầm được. Bài dân ca Rủ
nhau đi hái rau rừng có nội dung nói về một đôi tình nhân rủ nhau vào
rừng hái rau, bẫy chuột vào mùa khô nhưng đầy ý tứ và tình cảm lay động
lòng người. Dẫu sân khấu chỉ là một góc bếp oi nồng mùi khói và khán giả
là những người bạn mới quen, nhưng A Thút vẫn biểu diễn say sưa như thể
đang biểu diễn trước muôn người. Và, càng biết bao trân trọng mơ ước
đưa tiếng rừng, tiếng núi, tiếng của ông cha truyền đời bay cao, vang xa
của người nghệ nhân Ba Na có tên A Thút.
Theo congly.com.vn