"Thần" kèn nơi thung vắng
|
Ông Trương Văn Lợi trước ngôi nhà của mình trong xóm núi. |
Sống
giữa cái nôi văn hóa của người dân tộc Thổ miền Tây xứ Nghệ, từ lúc là
đứa trẻ chăn trâu, đầu còn để chỏm, ông Lợi đã ham kèn. Bố, ông nội, cụ
nội đều là những "tay" kèn nổi tiếng. Mỗi lần bản làng mở hội, ông lại
bám áo ông, áo bố, "xem" kèn. Mới 12 tuổi, ông đã thuộc làu làu từng
giai điệu, từ kèn sải du dương, trầm bổng đến lồng ba reo vui như nước
suối nguồn... Có đận mải vui, ông Lợi để trâu ăn hết
sạch mấy nương ngô, còn mình vắt vẻo bên ghềnh đá thổi kèn réo rắt. Bị
người làng bắt vạ, mẹ ông, người đàn bà cả đời không bước ra khỏi nách
núi ấy, đã phải lẳng lặng giấu chồng đem hai bao tải cả khoai lẫn sắn đi
đền. Cũng không hẳn là bà bao che, bởi bà đã nhìn thấy ngọn lửa đam mê
âm nhạc cháy trong mắt con trai.
17 tuổi, ông cũng
như bao chàng trai dân tộc Thổ khác, cứ mỗi phiên chợ lại vác kèn đi để
thổi mời gọi "bạn tình". Bao giờ cũng vậy, khi tiếng kèn của ông cất
lên, người ta nghe trong đó vừa như có tiếng nước róc rách từ trên nóc
núi chảy xuống thung lũng Chín Ngăn, vừa như có tiếng gió dào dạt chơi
cút bắt trên cánh rừng đại ngàn... Chẳng thế, biết bao sơn nữ mơ màng,
đắm say khi nghe tiếng kèn như "thôi miên" của chàng trai vạm vỡ tựa con
báo gấm hoang vu. Nhưng, ông Lợi chỉ chú ý đến một người. Đó là Trương
Thị Phượng (SN 1940), người con gái đẹp nhất nhì thung lũng Làng Mo, đẹp
như bông hoa sim, hoa mua đầu bản.
Mất hai đêm dầm
sương đứng đầu hồi thổi kèn gọi bạn, đến đêm thứ ba, khi tiếng kèn của
ông vừa mới cất lên, cô Phượng khẽ mở rào dúi vào tay ông chiếc khăn có
thêu hình đôi chim đang bay lượn. Ông có người yêu từ đó.
Ai
cũng ngỡ rằng, đôi trai tài gái sắc ấy sẽ nên duyên vợ chồng một sớm
một chiều, thế nhưng mãi 5 năm sau, đám cưới mới được tổ chức. Bởi cũng
trong năm đó, ông Lợi đi thoát li. Sau hai năm làm công nhân cho xí
nghiệp khai thác gỗ ở Con Cuông (Nghệ An), đến năm 1958, ông chuyển ra
Hà Nội, công tác tại bộ phận khảo sát địa chất, đo đạc đường bộ của Bộ
Giao thông Vận tải. Mãi đến năm 1960, tranh thủ được 15 ngày phép, ông
về quê lấy vợ. Cưới nhau mới được vài hôm, vợ chồng còn đương lửa mặn
hương nồng, ông lại phải lên đường đi công tác.
Suốt
hơn 10 năm rong ruổi khắp nẻo rừng Tây Bắc để khảo sát đo đạc địa chất,
không khi nào ông Lợi quên mang theo chiếc kèn của dân tộc mình. Ông
bảo, khi đó rừng núi hoang vu, đêm lán trại buồn hiu hắt, tiếng kèn vừa
là bầu bạn, vừa giúp ông vơi đi nỗi nhớ vợ, nhớ quê. Đến năm 1969, ông
Lợi được xung vào đơn vị vận tải số 8, chuyên chở vũ khí, đạn dược phục
vụ cho chiến trường Quảng Trị. Suốt những năm tháng "tay vần vô lăng,
mắt nhìn pháo sáng" dọc con đường Trường Sơn lịch sử, bom đạn bời bời,
ông vẫn không thôi nhớ về tiếng kèn, tiếng chiêng, tiếng trống của người
Thổ trong những đêm lễ hội. Bởi, do nhiệm vụ phải đảm bảo tuyệt đối bí
mật, an toàn, nên chiếc kèn ông mang theo chẳng mấy khi dùng đến. Lắm
lúc nhớ quá, ông chỉ dám mang kèn ra lau chùi, không dám thổi.
"Bao giờ cho đến ngày xưa…"
|
"Thần" kèn Trương Văn Lợi bên chiếc kèn của dân tộc Thổ.Ảnh: N.G |
Sau
khi hòa bình lập lại, năm 1977, ông Lợi về công tác tại Xí nghiệp Vận
tải số 16 đóng ở Vinh cho đến tận khi về hưu. Về lại mái nhà nơi vùng
đất Phủ Quỳ, ông cùng một số bậc cao niên trong bản đứng ra thành lập
đội nhạc chuyên phục vụ cho đồng bào nhân các ngày lễ hội. Trong các
nhạc cụ truyền thống của người dân tộc Thổ, kèn đứng hàng thứ 4 sau
trống, cồng, chiêng. Kèn có 7 lỗ, tương ứng với 7 nốt âm: ò, ni, né, nê,
nề..., khi biểu diễn cùng dàn nhạc, người thổi phải biết điều khiển sao
cho quấn quện với tiếng chiêng, tiếng trống. Ngoài khả
năng chơi kèn đã "vang danh một cõi", ông Lợi còn có thể sử dụng thành
thục tất cả các loại nhạc cụ còn lại. Hầu như ở bất cứ đâu, từ liên
hoan, giao lưu văn nghệ các dân tộc của tỉnh, của huyện đến các lễ hội
của người Thổ trong vùng ông đều góp mặt. Không chỉ là người trực tiếp
chơi nhạc, ông còn cố gắng truyền thụ cho lớp con cháu nhằm duy trì, bảo
tồn một nét văn hóa lâu đời.
Cả đời đắm đuối với
tiếng kèn như thế, nhưng có điều lạ là ông Lợi chưa từng được bất cứ
bằng khen, giấy khen nào của các ban, ngành văn hóa. Trong bốn bức tường
gỗ rêu cũ ở nhà ông, chỉ thấy treo đầy những huân, huy chương từ thời
kháng chiến. Ông bảo, chả lẽ mình gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc cha
ông từ nghìn xưa để lại mà cũng cần người ta phải khen ư? Chẳng hóa ra
mình làm vì thành tích à? Ông bảo, mình chơi kèn, múa kèn, thổi kèn
không phải để thành một người hành nghề biểu diễn kiếm cơm, càng không
phải để tìm chút hư danh. Mà đơn giản, ông chỉ là người mê kèn, muốn
phục dựng những giá trị văn hóa tổ tiên mình từng sở hữu, giờ đang bị
mai một đến xót xa.
Nhưng điều ông Lợi trăn trở hơn
cả không chỉ là bốn người con của ông không ai nối được "nghiệp" cha, mà
còn bởi những nhạc cụ của dân tộc Thổ ngày càng thưa vắng. Cả Làng Mo
giờ chỉ còn duy nhất một bộ nhạc cụ treo ở ngoài nhà văn hóa. Mỗi khi
bản có việc, các cụ mới cử một đám thanh niên ra mở cửa rồi "hộ tống"
mang về. Người chơi nhạc thì còn có thể đào tạo, chứ thiếu nhạc cụ biết
lấy gì để dạy?
Để "biểu diễn cho khách xem", suốt
buổi chiều nơi xóm núi, ông Lợi đã phải nhờ Trưởng bản Trương Văn Hồng
chạy đôn, chạy đáo mà vẫn không mượn được cái "lưỡi" nhựa. Bí quá, ông
đành hái lá cây sa nhân làm lưỡi. Cứ kết thúc mỗi làn điệu, ông lại lọ
mọ nhúng thêm một chiếc lá vào nước ấm để quấn cái khác, mắt ông buồn xa
vắng. Ông bảo, mấy năm trước, cả bản có đến hơn chục chiếc kèn, nhưng
người ta bán để mua ti vi, mua điện thoại hết rồi. Ông ngăn không được.
Ông sợ, một ngày nào đó, khi thế hệ những người già Làng Mo nằm xuống,
thì tiếng kèn, tiếng chiêng, tiếng trống của người Thổ, một nét văn hóa
riêng biệt của vùng đất hoang rậm này cũng bị "chôn" theo. Mà tuổi ông
cũng đã nhất, nhì của bản, chỉ thoáng chốc nữa thôi cũng sẽ hóa cỏ xanh.
Ấy vậy mà suốt mấy năm nay, ông vẫn kỳ cụi khắp miền Tây xứ Nghệ, để
những mong gom về các "báu vật văn hóa" bị "đánh rơi". Mỗi khi đường xa
gối mỏi, ông lại ước, bao giờ cho đến ngày xưa...