Cổng
làng dựng ở đầu làng, lối đi lại chính để vào làng. Nhiều làng có tới
hai, ba cái cổng dựng ở những lối vào làng khác nhau. Ban đầu có thể chỉ
là những cổng bằng tre gai để ngăn thú dữ, sau trở thành cổng ngõ quan
trọng ngăn những kẻ xâm nhập vào phá phách làng. Đến thời Lê, thế kỷ XVI
- XVII, với những vật liệu mới như gạch, đá, nhất là đá ong, cùng vôi
trộn với mật mía và muối, cổng làng được xây dựng kiên cố hơn, và cũng
đẹp hơn nhiều. Cổng làng là để bảo vệ trị an cho làng, nên nhiều nơi,
cổng làng còn có cánh cổng gỗ vững chắc, tuần đinh đóng, mở theo giờ
giấc mà làng quy định. Có nơi, hai bên cổng làng còn đào hào nước, bên
trong trồng tre gai, như một chiến lũy. Trước năm 1945, cả Hà Nội và Hà
Tây (cũ) có chừng 1.500 làng, vậy nên có rất nhiều cổng làng. Song do
thời gian và nhất là chiến tranh binh lửa, số cổng làng còn lại không
nhiều. Tuy vậy, những cổng làng còn lại rất đẹp, và thực sự là di sản
văn hóa của người xưa gửi lại cho muôn đời sau, tiêu biểu như cổng làng
Ước Lễ ở Thanh Oai, cổng làng Chi Quan ở Thạch Thất, cổng làng Mông Phụ ở
Đường Lâm, Sơn Tây...
|
Cổng làng Đông Ngạc |
|
Phần rất quan trọng của cổng làng là vòm cổng,
thường xây cuốn, còn được gọi là lối cổng. Trên vòm cổng thường là mái
lợp ngói, người ta có thể trú mưa, nắng ở đó. Nhiều cổng làng phần trên
vòm cổng còn xây vọng lâu cao hai, ba tầng mà mỗi tầng mái đều có những
đầu đao cong vút như kiểu đầu đao đình, chùa cổ. Bên ngoài vòm cổng là
hai trụ cổng, được xây cao vút, trên mỗi thân trụ cổng thường đắp nổi
những câu đối với nội dung nói về truyền thống đẹp đẽ, thanh cao của
làng. Thường thì cổng làng có một cửa chính rất lớn, nhưng nhiều cổng
làng, ngoài cửa chính còn có hai cửa phụ hai bên, thấp và nhỏ hơn, tựa
như tam quan của chùa hay đình làng. Có những cổng làng xây dựng theo
kiểu trên là nhà dưới là cửa (thượng gia hạ môn), như cổng làng Thạch
Thán ở Quốc Oai, cổng làng Lai Xá ở Hoài Đức, đặc biệt là cổng làng Mông
Phụ ở Đường Lâm xây từ thời Lê Trung Hưng, thế kỷ XVII... Mặt cổng
được coi trọng nhất, là nơi được đắp nổi những gờ chỉ hình con triện,
đắp nổi hình hoa, lá cách điệu; và ở vị trí trang trọng trên cùng đắp
nổi những chữ đại tự, ghi tên làng hoặc những điển cố với nội dung súc
tích thể hiện mong ước của người làng. Chẳng hạn, cổng làng Ước Lễ xây
dựng từ thời Mạc, là một cổng làng đẹp xứ Bắc, đắp nổi 3 chữ đại tự Ước Lễ môn (cổng làng Ước Lễ). Cổng làng Phùng Xá thì đắp 2 chữ lớn Trung chính với nghĩa người làng luôn đề cao lẽ sống chính trực. Cổng làng Hà Trì có 4 chữ Mỹ tục khả gia, nêu lên truyền thống giữ gìn những tục lệ tốt đẹp. Nhiều cổng làng cổ khắc 3 chữ lớn Nhân vi mỹ, với nghĩa người làng lấy phẩm chất tốt đẹp của con người làm trọng. Cũng nhiều cổng làng đắp 3 chữ lớn Thiểu cao đại, là lấy tích từ Hán thư
ghi chuyện một vị đại thần tên là Vu Định Quốc căn dặn con cháu sau này
làm cửa cổng cho cao rộng hơn, để khi trở thành quan to thì xe, ngựa
mới đi vừa. Ghi 3 chữ ấy là mong muốn con cháu trong làng phấn đấu học
hành, để cuộc đời được phát đạt...
Nơi
cổng làng, từ xa xưa ông bà thường cho đặt một đôi nghê. Trên mình nghê
có nhiều vẩy, vai rộng, trán rộng, đầu có chiếc sừng nhọn mạnh mẽ, nên
trông nghê vừa có vẻ như rồng, lại có vẻ như sư tử. Là một linh vật
huyền thoại, nghê được mọi người trong làng vừa yêu quý, vừa kính trọng.
Mắt nghê to và sáng, miệng rộng, luôn nhe răng, nhìn quen không thấy dữ
tợn mà có vẻ như cười. Có những đôi nghê được tạc bằng đá, cũng có
những đôi nghê là gốm sứ, có khi nghê được làm bằng đất nung, bằng vôi
cát trộn mật và muối. Nhiều đôi nghê to lớn ngồi trước cổng làng như
suốt ngày đêm cần mẫn làm nhiệm vụ trông coi cuộc sống của mọi người
trong làng được bình an. Cũng có những đôi nghê thanh thoát, nhẹ nhõm
ngồi chót vót trên hai trụ cổng, hoặc trên tam quan, nhìn xa ra tận cánh
đồng, tận bãi sông... Nghê chứng kiến những đám cưới đón dâu vào làng
hoặc đưa dâu tới làng khác; lại cũng chứng kiến những đám tang đưa người
ra khỏi làng mãi mãi. Người làng phải đi xa làm ăn thường qua cổng làng
rồi còn mấy lần ngoái lại nhìn đôi nghê, như là để chào tạm biệt. Người
xa quê khi trở về làng, dường như đôi nghê sẽ nhìn thấy đầu tiên. Đôi
nghê là một phần giá trị văn hóa làng, gắn liền với những cổng làng cổ
kính, thân yêu.
Cổng hậu làng An Thọ, Thụy Khuê, Hà Nội
|
Trải
qua bao đời, cổng làng trở thành hình ảnh thiêng liêng về quê hương, xứ
sở, gắn liền với cây đa, giếng nước, với ngôi chùa, đình làng. Do vậy,
nhiều làng quê không giàu có gì, nhưng dân làng vẫn tích cóp để xây cổng
làng đẹp và bền vững, như xây chùa, xây đình làng vậy. Nhờ những gắng
sức bền lòng ấy, nên rất nhiều làng quê đã có được cổng làng, như một di
sản văn hóa người muôn năm cũ tạo dựng, gửi lại cho hậu thế. Và cổng
làng đã trở thành một phần hồn quê, tạo nên sức sống và bản lĩnh của
làng. Nhờ thế, đất nước ta từng bị giặc chiếm mất, nhưng làng quê thì
không bao giờ bị mất, để rồi, từ làng, người Việt ta giành lại đất nước.
Khép lại bài viết này, tôi muốn kể
một chút về chí sỹ Lương Văn Can, người sáng lập trường Đông Kinh nghĩa
thục hơn trăm năm trước. Ông người làng Nhị Khê, Thường Tín. Mỗi lần từ
nội thành Hà Nội về làng, đi xe tay, mặc dù theo lệ làng thì vào tới đền
thờ Nguyễn Trãi nơi có tấm bia ghi hai chữ hạ mã mới phải
xuống xe đi bộ, nhưng tới cổng làng (tên là cổng Quốc), ông đã xuống xe,
đi bộ về nhà. Bởi, ông coi cổng làng là một biểu tượng của quốc hồn
quốc túy!