Hát then đang
được chuẩn bị lập hồ sơ để được công nhận di sản văn hoá thế giới. Đây
thực sự là cơ hội lớn để di sản của dân tộc Tày nói chung và ở Tuyên
Quang nói riêng được cả thế giới biết đến. Tuy nhiên, cũng đặt ra nhiều
vấn đề trong công tác bảo tồn di sản này trong thời gian tới.
Di sản đặc sắc
Hát then là văn hóa đặc trưng của đồng
bào dân tộc Tày, Nùng, Thái vùng Tây Bắc. Hát then đi liền với đàn
tính, là nghệ thuật diễn xướng mang yếu tố tâm linh. Then có thể hiểu là
thiên, vì thế người hát, múa then trong những dịp lễ, tết là những
người đại diện cho cộng đồng giao tiếp với thần linh, cầu cho mùa màng
tươi tốt, đời sống ấm no, hạnh phúc.
Then có nhiều hình thức biểu đạt như:
kỳ yên với ý nghĩa là cầu mong cho mưa thuận gió hòa; giải hạn là cầu
mong tránh khỏi tai họa; Lẩn ẻn là xem duyên phận của các đôi trai gái;
mừng thọ là chúc cho người cao tuổi sống lâu...
Việc bảo tồn, phát huy giá trị của hát then đang gặp nhiều khó khăn
Đặc trưng của then là giai điệu mượt
mà, đằm thắm, âm hưởng đầm ấm tạo cảm giác gần gũi, thiêng liêng. Nhờ
đó, hát then vốn là văn hóa gốc của dân tộc Tày nhưng người Nùng, người
Thái cũng hát then; hiện nay hát then đã có mặt ở 14 tỉnh, thành phố.
Ngoài ý nghĩa tâm linh, đồng bào các dân tộc Tày, Nùng, Thái còn hát
then để ca ngợi quê hương, đất nước, con người.
Ông Nguyễn Vũ Phan, Giám đốc sở VHTTDL
tỉnh Tuyên Quang, tâm sự rằng Sở VHTTDL Tuyên Quang cũng như cá nhân
ông rất lo lắng vì chứng kiến cảnh hát then đang dần bị quên lãng ngay
trên quê hương mình. Để cứu vãn, hàng năm tỉnh đã tổ chức rất nhiều lớp
học dành cho con em dân tộc Tày, Nùng ở địa phương, cũng mất công mời
các nghệ nhân đến để dạy, nhưng cũng chả được mấy người theo, nhất là
những người trẻ. Các nghệ nhân già thì ngày càng rơi rụng, lớp trẻ thì
hát nhạc trẻ. Hát then giờ cũng bị trẻ hóa rất nhiều. Lời then giờ đa
phần được đặt lại. Lời cổ không còn mấy người giữ. Trong khi đó, nếu làm
hồ sơ di sản trình UNESCO thì đấy mới là những thứ tinh túy, cái hồn
của then cần trưng ra với thế giới.
Thách thức trong bảo tồn
Mặc dù có sức lan tỏa mạnh mẽ, song
hát then cũng như nhiều di sản văn hóa phi vật thể ở Việt Nam đứng trước
nguy cơ mai một nghệ nhân, thiếu người kế cận.
Ông Nguyễn Vũ Phan cũng thừa nhận:
Riêng tỉnh Tuyên Quang có tất cả 4 nghệ nhân nắm giữ làn điệu then cổ
thì đã mất đi 2 người. 40 hạt nhân văn hóa là người dân tộc Tày có nhiệm
vụ phổ biến, duy trì làn điệu hát then ở cơ sở cũng chỉ có một số người
biết hát then cổ. Đáng lo ngại hơn là một bộ phận người dân tộc Tày
không còn nói được tiếng mẹ đẻ. Thực trạng này là thách thức không nhỏ
đối với việc bảo tồn, phát huy giá trị di sản hát then.
Ở Lạng Sơn, theo
ông Hoàng Thành Khởi, Trưởng phòng VH - TT huyện Văn Quan (Lạng Sơn),
cho biết đã mấy lần làm đề án bảo tồn hát then nhưng rồi phải bỏ ngang
vì thiếu kinh phí, nhưng nếu có tiền cũng không có người truyền dạy. Xã
Bình Phú, nơi hiếm hoi của tỉnh còn duy trì được đội hát then truyền
thống thì mỗi năm đội văn nghệ xã cũng chỉ biểu diễn được 3 - 4 buổi.
|
Không riêng gì Lạng Sơn, Tuyên Quang
mà các tỉnh khác có nghệ thuật hát then như Cao Bằng, Bắc Kạn, Bắc
Giang, Quảng Ninh, Đắk Lắk… đều có chung số phận. TS. Lê Văn Toàn, Viện
trưởng Viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam, cho biết: Trong năm nay, Viện sẽ
cùng với 14 tỉnh có làn điệu hát then lên kế hoạch kiểm kê, đánh giá di
sản hát then, xem thực chất hát then đang được lưu giữ và bảo tồn thế
nào. Rồi từ đó mới tiến hành xây dựng hồ sơ di sản để trình UNESCO.
Ông Toàn cũng cho biết, nếu xét về làn
điệu âm nhạc và tính đặc trưng, sức lan tỏa thì hát then xứng đáng được
vinh danh không chỉ ở Việt Nam mà trên thế giới.
Con đường để trở thành di sản của thế
giới của nghệ thuật hát then còn dài, tuy nhiên, thiết nghĩ, bảo tồn,
phát huy giá trị làn điệu then không phải chỉ là việc lập hồ sơ để được
phong tặng danh hiệu mà trước hết là việc giữ gìn phát huy giá trị di
sản trong đời sống văn hóa của cộng đồng.
Theo nongnghiep