Những hình ảnh hiếm về "cu li" kéo xe ở Việt Nam
(Ngày đăng: 02/07/2012 Lượt xem: 628)
Người
ta thường cho rằng xe kéo đã ra mắt chào đời vào đầu kỷ nguyên Minh Trị
của Nhật Bản, năm 1868. Khi những người lớn tuổi được người làm kéo đi
như thế trong lúc cần di chuyển.
Từ đó, dưới cái tên Rickshaw hay Rickish, nó trở thành một phương tiện
lưu thông mà người thực dân Anh ở Hồng Kông rất thích và nó từ từ lan
tràn khắp Đông Nam Á tới tận Ấn Độ và vùng biển Ấn Độ Dương.
|
Ở Đông Dương, vài
chiếc xe kéo được xuất hiện lần đầu tiên tại Hà Nội năm 1883 do Ông Toàn
Quyền Đệ Nhất Bonnal đã cho phép đem từ bên Nhật qua. |
|
Gần 15 năm sau Sài Gòn
mới biết tới loại xe kéo nầy, ở đây phương tiện di chuyển duy nhất là
chiếc xe ngựa kéo mà người Pháp gọi là Malabar hay Boîte d’allumettes. |
|
Vào năm 1884, một nhà
thầu Pháp cho chế tạo khoảng 50 chiếc xe kéo cho cả miền Bắc. Từ đó
chiếc xe kéo đã từ từ trở thành một bộ mặt quen thuộc trong thành phố Hà
Nội. Nó xuất hiện một năm sau chiếc xe hơi Âu Châu đầu tiên và một năm
trước xe tramway kéo bằng ngựa. |
|
Liền sau đó, một nhân
viên thuế vụ từ miền Nam tới đã nghĩ ra thành lập một hãng cho thuê xe
kéo. Theo trí nhớ của các người xưa thì chuyện đó là một thành công rực
rở, dù mướn giờ hay mướn ngày, cũng phải giữ chổ trước một ngày nếu muốn
được chở đi. |
|
Ngay cả sau Đệ Nhất
Thế Chiến cũng chỉ có khoãng 30 chiếc xe kéo công cộng trong cả thành
phố Hà Nội. Chỉ có vài nhân viên Pháp và quan lớn của Hà Nội mới có đủ
phương tiện mua riêng một chiếc xe kéo. Đa số người Hà Nội chỉ biết đi
bộ, nghĩa là đi chân không, là phương tiện di chuyển tiện nhất. |
|
Lúc đó chiếc xe kéo
được kéo bởi một người “cu-li” và đôi khi được thêm hai người khác đẩy.
Nếu là quan lớn thì thường có người trẻ đi kế bên người phu kéo, tay cầm
ống thuốc lào hoặc một khay trầu nếu người ngồi trên xe là phụ nữ. |
|
Chiếc xe kéo đầu tiên
có bánh xe bằng sắt, cho nên chạy không được yên lắm. Dù vậy phương tiện
nầy biểu hiệu cho sự giàu có và uy quyền của chủ xe. Lúc nào cảnh người
phu kéo ông chủ ngồi trên xe đi qua cũng gây ra sự hiếu kỳ cho đám
đông. |
|
Vào thời đó, tất cả
những gì do Tây đem tới đều được dân chúng cho là văn minh. Những cô
thiếu nữ Hà Nội không dám ngồi trên xe kéo vì sợ miệng đời chê là Me
Tây, có nghĩa là lấy chồng Tây. Với sự tiến bộ, sau đó bánh xe bằng sắt
được thay thế bằng bánh xe cao su đặc, tiện nghi hơn cho người ngồi trên
xe. |
|
Chỉ lúc bấy giờ những
cô thiếu nữ Hà Nội mới dám xài xe kéo với bánh xe bằng sắt, còn loại tân
tiến với bánh xe bằng cao su thì dành riêng cho người Việt lấy Tây. Và
những xe kéo lỗi thời với bánh xe sắt đã từ từ bị đẩy ra vùng ngoại ô Hà
Nội. |
|
Ngay cả những xe kéo
với bánh cao su cũng chia ra làm hai loại, loại bình thường và loại của
nhà hành OMIC. Loại nầy có chỗ ngồi bằng aluminium trắng bóng và có nệm
lò xo cũng được bọc vải trắng, dĩ nhiên đi xe loại này thì mắc tiền hơn
là đi xe loại thường. |
|
Hình ảnh về các quan
lại, binh lính, chức dịch… thời đại phong kiến dưới triều đại phong kiến
qua góc nhìn của các nhiếp ảnh gia người Pháp khi họ đến Đông Dương
trong đó có Việt Nam cho thấy một cái nhìn đầy đủ cho thế hệ chúng ta về
một thời kỳ đã kéo dài ở Việt Nam hàng trăm năm. |
|
Họ chính là những
“người ngựa, ngựa người” như trong một tác phẩm của cố nhà văn Nguyễn
Công Hoan từng đau xót ghi lại về thân phận những người phu xe nhọc
nhằn. |
|
Những chiếc xe kéo ở Hải Phòng. |
|
Những người phụ nữ ở Đồ Sơn, Hải Phòng với việc đi phu chở thuê cho các bà đầm, me Tây vợ người Pháp. |
|
Họ dùng các thanh đòn bằng tre để khiêng như khiêng kiệu. |
|
Phục vụ các ông tây bà đầm ngắm cảnh ở Đồ Sơn, Hải Phòng. |
|
Những người phụ nữ với nghề phu kiệu ở Đồ Sơn, Hải Phòng. |
|
Giây phút nghỉ ngơi của các nữ phu kiệu. |
Theo GDVN