GS.TS
Nguyễn Văn Khang (Viện Ngôn ngữ học) phân tích và khẳng định những cống
hiến khoa học của GS Nguyễn Thiện Giáp trong nghiên cứu ngôn ngữ học
qua cụm công trình vừa được trao Giải thưởng Nhà nước về khoa học công
nghệ năm 2010: “Từ vựng học tiếng Việt” (1985) “Từ và nhận diện từ tiếng
Việt” (1996).
Giống như những vật liệu để xây một ngôi nhà với gạch là vật liệu truyền thống, ngôn ngữ không thể không có từ và các đơn vị tương đương như từ (cũng như xây nhà phải có vật liệu vậy). Vì thế, từ là sự tồn tại tất nhiên trong hệ thống ngôn ngữ và nghiên cứu về từ trở thành một trọng tâm của ngôn ngữ học. Cách hình dung đơn giản như vậy cũng là để muốn nói rằng, từ là một vấn đề vừa mang tính truyền thống vừa mang tính hiện đại của khoa học ngôn ngữ. Từ
trở thành một nội dung không thể thiếu của ngôn ngữ học đại cương với
hàng ngàn định nghĩa được đúc rút từ những nghiên cứu cụ thể về từ ở từng ngôn ngữ và trên cơ sở đó, nó lại được áp dụng, triển khai nghiên cứu rộng rãi, liên tục ở mọi ngôn ngữ.
Ở Việt Nam, nghiên cứu về từ có cả một bề dày. Nhất là khi vấn đề từ tiếng Việt
trở thành nội dung nghiên cứu ở cả ngữ pháp (từ pháp) lẫn từ vựng. GS
Nguyễn Thiện Giáp, sau khi tốt nghiệp chuyên ngành ngôn ngữ, Khoa Ngữ
văn Trường Đại học tổng hợp Hà Nội và được giữ lại làm cán bộ giảng dạy,
đã nhanh chóng xếp vào hàng nghiên cứu từ vựng. Ông vào hàng nghiên cứu
từ vựng tiếng Việt khi đứng trước ông có rất nhiều người nghiên cứu về
từ vựng, trong đó có cả những nhà Việt ngữ học thành danh với các công
trình nghiên cứu, bài viết sâu về từ tiếng Việt. Ông đứng vào hàng
nghiên cứu từ vựng tiếng Việt trong bối cảnh ngôn ngữ học Việt Nam đang ở
cao trào của nghiên cứu cấu trúc luận và từ tiếng Việt trở
thành một nội dung khoa học trung tâm của Việt ngữ học ở cả hai bình
diện là bình diện ngữ pháp học tiếng Việt và từ vựng học tiếng Việt.
Xung quanh vấn đề từ tiếng Việt, câu hỏi
luôn được đặt ra là: từ tiếng Việt là gì (thế nào là từ tiếng Việt) và
cái gì đích thực là từ tiếng Việt (bản chất của từ tiếng Việt). Nếu coi
“âm tiết tính” là đặc điểm cơ bản, mang tính bản chất của tiếng Việt thì
vấn đề từ tiếng Việt cần được giải quyết như thế nào trong mối quan hệ
với đặc điểm đơn âm tiết này? GS Nguyễn Thiện Giáp đi theo hướng mà
trước đó tuy đã có người đề cập nhưng chưa có điều kiện nghiên cứu sâu
hoặc không triệt để, đó là: từ tiếng Việt có vỏ ngữ âm là âm tiết.
Nếu coi hình vị là đơn vị có nghĩa của ngôn ngữ thì từ tiếng tiếng Việt
cũng trùng với âm tiết. Triệt để theo quan điểm này, ông cho rằng,
trong tiếng Việt, cùng với đơn vị từ vựng cơ bản là từ thì còn có một
đơn vị từ vựng là ngữ. Ngữ là những cụm từ sẵn có trong tiếng Việt, có giá trị tương đương như từ. Khái niệm “ngữ” được ông giải thích như sau: khác với cụm từ tự do, các ngữ (từ ghép, từ láy, ngữ định danh, thành ngữ) đều có tính cú pháp trong quan hệ giữa các thành tố. Khái niệm phi cú pháp, theo ông, không
phải là không có quan hệ cú pháp mà là có quan hệ cú pháp đã đi trệch
ra khỏi những mô hình cú pháp bình thường của tiếng Việt hiện đại.
Với cách lí giải này của ông, trong tiếng Việt có “từ, ngữ, câu” và theo
đó, những khái niệm hình vị, từ đơn, từ ghép, từ phái sinh,… nếu có thì
cũng sẽ phải được giải thích thông qua ba khái niệm cơ bản trên. So
sánh với khái niệm ngữ mà ông nêu ra với khái niệm cụm từ
trong ngôn ngữ Ấn Âu, ông cho rằng, chúng không hoàn toàn giống nhau:
về mặt ngữ nghĩa, các ngữ trong tiếng Việt tương đương với từ phái sinh,
từ phức, từ ghép và cụm từ cố định trong các ngôn ngữ Ấn Âu. Đến đây
thì đã rõ, dù ông có thêm những đoạn giải thích thì cái cốt lõi “mỗi âm
tiết là một từ” là quan niệm mà ông theo đuổi hay nói một cách chính xác
được ông triệt để hoá: những đơn vị gọi là từ đơn, từ phức, từ ghép, từ láy trong tiếng Việt được ông chuyển sang ngữ.
Quan điểm về từ và ngữ tiếng Việt của GS Nguyễn Thiện Giáp xuất hiện ở vào cái thời mà tạp chí Ngôn ngữ đang có cuộc tranh luận sôi nổi, kéo dài về tiếng, từ và hình vị
trong tiếng Việt. Ông xếp hàng đã đến luợt đăng kí ghi tên mình và ra
trình làng ngôn ngữ học bằng luận án phó tiến sĩ (nay là tiến sĩ) của
ông: Vấn đề phân định ranh giới trong những đơn vị thường được gọi là từ của tiếng Việt
(1983). Buổi bảo vệ đó tôi cũng đến dự và tôi còn nhớ như in không khí
“sục sôi, căng như dây đàn” khi xuất hiện các ý kiến trái chiều với luận
án của ông. Nhưng may thay cho ông, GS Nguyễn Tài Cẩn – một con người
uyên bác cả về tri thức khoa học và tri thức cuộc sống đời thường – đã
phát biểu một câu khiến cho bầu không khí đang nóng của hội trường từ từ
hạ nhiệt, đại ý là, những vấn đề mà các vị vừa nêu là rất hay, xin mời
các vị mài giũa lí thuyết, kiến thức để chúng ta tiếp tục tranh luận
trên tạp chí Ngôn ngữ, còn đây là trường quy… (lúc đó ngành ngôn ngữ học
chỉ có một tạp chí duy nhất là tạp chí Ngôn ngữ). Cũng là điều dễ hiểu
thôi, khi quan điểm mà ông phát triển triệt để được thể hiện trong luận
án tỏ ra có phần lạc lõng với quan điểm đang thịnh hành trong tiếng Việt
và được coi như là quan điểm chính thống thời đó (thậm chí cho đến cả
bây giờ): tiếng Việt có từ gồm từ đơn, từ ghép và từ láy. Nhưng thời đó
nó khác, đó là thời của nền kinh tế kế hoạch hoá (còn quen gọi là bao
cấp) nên mọi tư duy đều theo hướng chuẩn mực. Nghiên cứu ngôn ngữ học
cũng không ngoại lệ. Chẳng hạn, chuẩn hoá tiếng Việt phải theo hướng quy
phạm luận, tức là có một cái khung định sẵn để soi vào, nếu một cách
dùng từ, một phát ngôn (nay gọi là biến thể) mà không lọt vào các ô của
cái khung đó thì sẽ bị coi là sai, không chuẩn mực. Đi ngược lại một
quan điểm đang thịnh hành gắn với những tên tuổi lớn là một cả một hiểm
nguy trong nghiên cứu khoa học. Nói ra điều này để không chỉ thấy được
cách tư duy logic và sự dày công nghiên cứu qua thực tế tiếng Việt của
GS Nguyễn Thiện Giáp mà còn thấy được bản lĩnh khoa học ở ông. Ông từ
tốn trong lời ăn tiếng nói khi tranh luận khoa học, nhẹ nhàng, tinh tế
trong ứng xử, nhưng, ẩn bên trong là sự quyết liệt… một sự quyết liệt có
sức thuyết phục bằng sức lao động, sự sáng tạo, trí tuệ và niềm say mê
của ông.
Càng ngày càng hiểu ra rằng, quan điểm mà ông nêu ra
không phải chỉ thuần tuý là cách gọi, là “sự sắp đặt chỗ ngồi” cho đơn
vị này hay đơn vị nọ. Bởi như thế có ích gì nếu chỉ là sự sắp xếp về mặt
hình thức. Chẳng hạn, thực tế đã đã có bài viết, do chỉ chú trong tới
mặt hình thức nên tỏ ra lúng túng không biết xử lí như thế nào với
trường hợp khinh trong tiếng Việt, đó là khinh mượn từ tiếng Hán (Hán Việt) được dùng trong tiếng Việt với hai nghĩa: với nghĩa là “nhẹ”, khinh chỉ được dùng là yếu tố tạo từ (khinh khí cầu); với nghĩa là “coi thường”, khinh được dùng vừa là một từ (khinh kẻ luồn cúi) vừa là yếu tố tạo từ (khinh bạc, khinh nhờn, khinh ghét). Trước những hiện tượng như khinh, bài viết kia đã đưa ra kết luận khinh
trong tiếng Việt “lúc là từ, lúc không phải là từ”. Thực ra không có gì
đáng phàn nàn về kết luận này, bởi ngữ pháp học thời đó chủ yếu xuất
phát từ hình thức – cấu trúc mà chưa có sự kết hợp nghiên cứu ngữ
pháp-ngữ nghĩa. Mà đâu chỉ có bên chúng ta, ngay cả những nhà ngôn ngữ
học hàng đầu thế giới như J.Layons cũng đã từng có ý kiến đại ý rằng,
hãy xem từ cũng như câu là những đơn vị “mặc định” để
làm việc (để khỏi phải “mất công” tranh luận). GS Nguyễn Thiện Giáp
trong nghiên cứu từ tiếng Việt đã hướng tới những vấn đề xa hơn, rộng
hơn, mang tầm lí thuyết. Điều này được thế hiện ở những nghiên cứu tiếp
theo của ông khi ông vận dụng lí thuyết tâm-biên của ngôn ngữ học hiện
đại vào nghiên cứu vấn đề từ tiếng Việt. Ông cho rằng, với giải pháp về
quan niệm từ tiếng Việt như vậy phù hợp với lí thuyết của ngôn ngữ đại
cương, phù hợp với truyền thống Đông phương học, phù hợp với ngữ văn học
Việt Nam và đặc điểm của tiếng Việt. Cũng theo ông, với cách quan niệm
về ngữ như vậy, ngữ pháp học tiếng Việt sẽ có cơ sở để nghiên
cứu các nội dung liên quan ngoài từ vựng. Chẳng hạn, liệu có còn hay cần
phân biệt giữa hình thái học và cú pháp học trong tiếng Việt như ngôn
ngữ học đại cương đã làm?,… Cũng cần phải nói thêm rằng, tuy đến nay,
quan điểm từ trùng với âm tiết mà ông là nguời theo đuổi cũng vẫn chỉ là
một trong những quan điểm về từ tiếng Việt, nhưng công lao của ông
chính là đã triệt để đi theo quan điểm đó bằng sự nghiên cứu thực tế
tiếng Việt một cách hệ thống và sâu sắc.
Nếu
trong khoa học tự nhiên có thần đồng thì khoa học xã hội khó có thể.
Câu này đúng với GS Nguyễn Thiện Giáp. Không ỷ vào sự thông minh, GS
Nguyễn Thiện Giáp thành công được như ngày hôm nay là nhờ vào sự cần mẫn
“con ong chăm chỉ” của ông. Ông dạy học và nghiên cứu, viết sách. Dạy
giúp cho ông “áp dụng, kiểm tra” kiến thức thực tế của mình, đọc sách
giúp cho ông bổ sung kiến thức và viết sách là sự thể hiện trí tuệ của
ông. Nhờ đó, cùng với các công trình nghiên cứu về từ tiếng Việt được
tái bản nhiều lần và mỗi lần là một sự cập nhật kiến thức mới, tư liệu
thực tế mới của tiếng Việt, ông còn có các công trình khác như Dụng học Việt ngữ (2000), Lược sử Việt ngữ học (tập 1, 2005; tập 2, 2007; chủ biên), Các phương pháp nghiên cứu ngôn ngữ học (2005), Giáo trình ngôn ngữ học (2008), 777 khái niệm ngôn ngữ học
(2010; giải thưởng Đại học quốc gia Hà Nội). Sách xuất bản nhiều, “đào
lí mãn thiên hạ” (học trò khắp nơi) nhưng GS Nguyễn Thiện Giáp vẫn một
lối sống giản dị, quen thuộc của một nhà giáo mà chỉ có những nguời như
ông mới duy trì được, đó là một vòng tròn khép kín: dạy học, đọc sách và
viết sách.
Xin chúc mừng Giáo sư, Tiến sĩ, Nhà giáo Nhân dân
Nguyễn Thiện Giáp được nhận giải thưởng nhà nước về khoa học công nghệ
2010 (tổ chức 5 năm xét một lần) cho hai công trình về từ tiếng Việt.
Ngành ngôn ngữ học Việt Nam có thêm những đóng góp mới từ nơi ông. Đồng
nghiệp chia vui với thành tích của ông. Các thế hệ sinh viên của ông tự
hào về người thầy của mình. Trường Đại học tổng hợp Hà Nội và Khoa Ngữ
văn của Trường, Đại học Quốc gia Hà Nội, Trường Đại học Khoa học xã hội
& nhân văn Hà Nội và Khoa Ngôn ngữ học của Trường vui mừng và tự hào
có những nhà giáo như GS.TS Nguyễn Thiện Giáp.
Theo vnu