Quả thật, nếu một dân tộc quên quá khứ, tức không hiểu biết gì về lịch sử
dân tộc mình, tựa như một cái cây đã bị trốc rễ. Và như thế nó chẳng khác gì
“một con trâu đi cày ruộng. Cày với ai cũng được, mà cày ruộng nào cũng được”.
Sự khẳng định, cũng có nghĩa là dự báo tài tình của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng về
vấn đề lịch sử là tuyệt đối đúng. Đúng với mọi thể chế, mọi thời đại.
Thập niên 30, 40 của thế kỷ XX, phong trào truyền bá
chữ Quốc ngữ do các học giả Nguyễn Văn Vĩnh, Nguyễn Văn Tố cùng biết bao người
Việt Nam
có tâm huyết khác đã làm sôi động các thành phố. Người ta tìm đủ mọi cách để giúp
đỡ người bình dân có thể biết đọc, biết viết trong một thời gian ngắn nhất. Cụ
Nguyễn Văn Vĩnh đã để cả sản nghiệp của mình vào việc khai mở dân trí. Ví như
mở các lớp học miễn phí, thu nhận bất cứ ai muốn học, mà phần lớn là lớp dân
nghèo thành thị. Lại bỏ tiền ra mở nhà in in sách, in báo chữ to để phát không
cho các lớp học bình dân ấy, và phát cho các thầy đồ nho để các thầy học rồi
dạy lại cho bọn trẻ. Bởi theo các học giả, chỉ khi nào dân trí được khai mở thì
mới có cơ hội phát triển dân tâm, kích thích dân khí nổi lên đánh đuổi thực dân
Pháp, giành lại quyền độc lập cho quốc gia.
Nguyễn Huy Tưởng sinh ra trong hoàn cảnh đất nước
đang chìm đắm trong gông cùm nô lệ, và lớn lên trong thời kỳ giới trí thức đang
tìm cách chấn hưng nền văn hóa dân tộc. Ông được ngọn gió lành của giới trí
thức khơi dậy lòng yêu nước và ý chí quật cường thôi thúc. Và ông tự xác định bổn
phận công dân cho chính mình: “Phận sự một người tầm thường như tôi muốn tỏ lòng
yêu nước chỉ có việc viết văn chữ Quốc ngữ thôi”.
Vì rằng trong thời điểm đó ở nước ta có ba loại văn
tự đang tranh chấp ngôi vị: chữ Pháp được chính quyền thực dân tôn vinh là thứ
văn tự độc tôn. Các văn thư chính thống của chính quyền các cấp buộc phải dùng
chữ Pháp. Nhà nước Pháp chính thức bãi bỏ chữ Hán trong thi cử từ đầu thế kỷ XX,
nhưng nó vẫn sống dai dẳng trong dân chúng, đặc biệt là các vùng nông thôn. Chữ
Quốc ngữ được các cha cố người Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha hoàn thiện từ thế
kỷ XVII, XVIII; cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX được chính thức đưa vào hệ
thống giáo dục cấp I, cấp II song hành với chữ Pháp. Vào thập niên 30 của thế
kỷ XX, giới trí thức Việt Nam quyết tâm mở mang dân trí, vì vậy song song với
việc truyền bá Quốc ngữ, thì các báo, các sách tiếng Việt cùng với hàng loạt
các nhà văn sáng tác bằng chữ Quốc ngữ xuất hiện, tiêu biểu là nhóm Tự lực văn
đoàn.
Viết bằng chữ Quốc ngữ có hai cái lợi. Thứ nhất là
khuyến khích mọi người học và đọc chữ Quốc ngữ. Vì Quốc ngữ dễ học, chỉ ba
tháng là thoát nạn mù chữ. Thứ hai dùng chữ Quốc ngữ để chuyển tải đến công
chúng những việc nên làm, cần làm và phải làm. Như vậy chữ Quốc ngữ xem như một
thứ vũ khí lợi hại cho việc khai trí, tiến đức.
Nguyễn Huy Tưởng xác định viết văn bằng Quốc ngữ là
yêu nước, cũng có nghĩa là ông tự chọn con đường đi với nhân dân, hướng về dân
tộc. Và ông khẳng định trong nhật ký của mình vào ngày 13.1.1932, năm ông mới
20 tuổi rằng: “Người không biết lịch sử
nước mình là một con trâu đi cày ruộng. Cày với ai cũng được, mà cày ruộng nào
cũng được”.
Với nhận thức sâu sắc như vậy, nên các tác phẩm đầu
tiên của ông thường viết về lịch sử. Vở bi kịch lịch sử nổi tiếng Vũ Như Tô viết vào năm 1942, Đêm hội Long Trì viết năm 1943 và năm
1944 tiểu thuyết An Tư xuất
bản. Trong đêm trường tăm tối, nhân dân Việt Nam một cổ hai tròng bởi hai tên
đế quốc Pháp và Nhật, tiểu thuyết An Tư
như một luồng sinh khí, tiếp sức cho mọi người chuẩn bị tư tưởng và hành trang
đi vào cuộc trường chinh giành lại non sông.
Quả thật, nếu một dân tộc quên quá khứ, tức không
hiểu biết gì về lịch sử dân tộc mình, tựa như một cái cây đã bị trốc rễ. Và như
thế nó chẳng khác gì “một con trâu đi cày
ruộng. Cày với ai cũng được, mà cày ruộng nào cũng được”. Có nghĩa
nó thực sự là một thân phận nô lệ, làm tôi tớ cho kẻ nào cũng được. Sự khẳng
định, cũng có nghĩa là dự báo tài tình của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng về vấn đề
lịch sử là tuyệt đối đúng. Đúng với mọi thể chế, mọi thời đại. Và đúng như sử
gia Fernaud Braudel từng viết: “Khi lịch sử
là một thành phần mà thiếu nó thì không một ý thức dân tộc nào đứng vững được”.
Việc giáo dục lịch sử ở nước ta trong hơn nửa thế kỷ
qua có nhiều bất cập, như trong bộ Đại
cương lịch sử Việt Nam (tập 3) trong 55 năm (1945 - 2000) đã chiếm
tới 1/3 pho quốc sử trải dài 4.000 năm. Trong cấu trúc giáo trình lịch sử ở cấp
tiểu học, trung học từ giảng dạy đến thi cử đều coi nhẹ môn quốc sử, khiến học
sinh, sinh viên chán học sử, chán đọc sử. Và hậu quả ta đang lãnh đủ. Ví như cách
đây đúng 14 năm, báo Pháp Luật số ra ngày 9.5.1998 đưa tin trường Đại học Khoa
học xã hội và Nhân văn TP Hồ Chí Minh có làm một thử nghiệm mang tính điều tra
xã hội học, trong số 1.800 sinh viên được hỏi thì có tới 44% trả lời: “Không biết các vua Hùng là ai; 39% số sinh viên này
trả lời không biết Trần Quốc Toản là ai”.
Thật ra kiến thức lịch sử của sinh viên trong kết
quả khảo sát trên có làm nhiều người đau lòng, nhưng cũng còn là ước mơ so với
năm 2005, theo số liệu Bộ GD - ĐT công bố thì điểm thi môn lịch sử vào Đại học
và Cao đẳng 60% dưới điểm 1 trong thang điểm 10. Như vậy là cứ 10 công dân có
học thì 6 người không hiểu biết lịch sử nước mình. Và nếu so với trình độ hiểu
biết lịch sử của học sinh, sinh viên hiện nay thì năm 2005 có nhẽ vẫn là đỉnh
cao mơ ước.
Và nếu lại làm một cuộc kiểm tra tại chỗ trong những
người có học, kể cả phần lớn các nhà quản lý hành chính quốc gia, các giáo viên
phổ thông trung học, các học sinh, sinh viên rằng hai quần đảo Hoàng Sa, Trường
Sa nằm ở tọa độ nào, nó có thuộc về Việt Nam hay không? Và nếu thuộc Việt Nam
thì người Việt Nam đã chiếm hữu, quản lý và khai thác nó từ bao giờ, và diễn biến
chủ quyền trên hai quần đảo ấy từ năm 1936 tới nay như thế nào? Chắc chắn sẽ
cho ta một kết quả vô cùng thảm hại. Vậy chứ ai phải chịu trách nhiệm lịch sử
về kết quả tồi tệ này?
Và tôi xin nhắc lại một lần nữa, lời của ngài
Fernaud Braudel: “Khi lịch sử là một thành
phần mà thiếu nó thì không một ý thức dân tộc nào đứng vững được”.
Kính thưa hương hồn nhà văn Nguyễn Huy Tưởng, tôi
thuộc lớp con cháu ông, và cũng theo gương ông viết tiểu thuyết lịch sử; tôi
nghiêng mình kính cẩn trước tấm lòng yêu nước vô cùng sâu sắc của ông, và trước
cả lời cảnh báo đau lòng của ông đã ứng vào tình trạng hiểu biết lịch sử nước
nhà của con em chúng ta hiện nay!
Theo daibieunhandan