Các yếu tố cấu thành một cái làng Bắc Bộ: cổng làng, cây đa, ao
làng, đình làng và hẳn nhiên không thể thiếu bụi tre bao quanh làng.
Thân thuộc và gần gũi, từ công cụ sản xuất đến đồ dùng hằng ngày, người
Việt Nam và tre gắn bó tự bao giờ.
Hai thanh tre (loại tre già, tre già bà Lim) để giữ nhịp trong cổ nhạc, tre - nhạc cụ.
Một đôi đũa tre cộng với một con dao bài thành một cái bùa trừ tà ma
ngày em bé chào đời. Tre già măng mọc. Một đôi đũa tre dựng đứng để nối
Trời với Đất trên bát cơm cuối cùng cho người đã khuất là cũng trọn
tình sinh tử với nhau.
Không cần ngọc ngà, 64 quẻ thẻ bằng tre cũng đủ linh thiêng xem hung
cát trọn một kiếp người. Chẳng có lửa nào đượm bằng lửa đóm tre ngâm.
Một nền văn hóa tre hay tín ngưỡng tre cũng là có thể.
Họ hàng nhà tre rất đông. Giám mục François Puginier, phụ trách xây
dựng Nhà Thờ Lớn Hà Nội hồi cuối thế kỷ 19 đã tổng kết có đến 32 loại
tre trong một công trình nghiên cứu độc đáo của ông.
Cuộc sống ngày càng náo nhiệt, ồn ào, xô bồ. Thời hiện đại có vẻ như
đang là thời của inox, nhôm nhựa rồi các loại chất liệu giả như giả đá,
giả gỗ, giả gốm, giả mây tre (thực chất là bằng nhựa). Sự lên ngôi của
các chất liệu này kèm theo với nó là lối sống chuộng hình thức, xanh
xanh đỏ đỏ, lòe loẹt đẹp mắt là được. Không cần gì phải ăn chắc mặc bền
hoặc tốt gỗ hơn tốt nước sơn nữa. Không bàn chuyện sai đúng, có lẽ chỉ
nên coi đó là sự dịch chuyển của những giá trị sống để tùy thì, để tồn
tại, để phù hợp. Nhưng rõ ràng tính nhân văn của chất liệu và phương
thức chế tác thông qua đồ dùng không có. Chả nhẽ cái gì cũng tiện, cũng
tạm bợ, đại khái cho xong? Khỏi cần phải hỏi và trả lời, chỉ đặt hai đồ
dùng cạnh nhau là đủ. Một cái rá vo gạo đan bằng tay bằng tre với một
cái rá sản xuất hàng loạt bằng máy bằng nhựa. Một cái bát bằng gốm vuốt
tay, vẽ tay với một cái bát sắt đột dập bằng máy. Một bộ bàn ghế gỗ
với bộ bàn ghế nhựa...
Nhưng thôi thời nào của đó.
Người sao của vậy.
Thân thuộc và gần gũi, từ công cụ sản xuất đến đồ dùng hằng ngày, người Việt Nam và tre gắn bó tự bao giờ.
|