Không
chỉ trong xã hội phong kiến, ngày nay, hương ước vẫn được xem như công
cụ không thể thiếu trong quản lý, tổ chức làng xã. Làm thế nào để hương
ước phát huy được những giá trị tốt đẹp là vấn đề được đặt ra trong tọa
đàm Một số vấn đề về hương ước làng xã người Việt, tại Trung tâm văn hóa
Pháp, Hà Nội ngày 20.6.
Hương ước: xây xong cất tủ
Thời
xã hội phong kiến, dù truyền khẩu hay thành văn thì hương ước cũng
không thể thiếu trong mỗi làng xã ở nước ta. Cho đến nay, khi nếp làng
đã có nhiều biến động, hương ước vẫn giữ vai trò quan trọng trong sự
phát triển của làng xã. Theo các diễn giả tại tọa đàm Một số vấn đề về hương ước làng xã người Việt,
kho tàng văn bản hương ước của người Việt vô cùng phong phú, tồn tại
với các dạng thức: Hương ước cổ (soạn trước cuộc Cải lương hương chính
năm 1921); Hương ước cải lương (gắn với cuộc Cải lương hương chính năm
1921); Hương ước mới (hiện nay).
Tuy
nhiên, theo PGS.TS Bùi Xuân Đính, Viện Khoa học xã hội Việt Nam, người
đã dành nhiều thời gian nghiên cứu hương ước, hiện có một thực tế, ở
nhiều nơi, hương ước được xây dựng xong chỉ đem cất trong tủ. Nguyên
nhân đầu tiên là do tính rập khuôn, sao chép của một số bản hương ước.
Mặc dù, về nguyên tắc, hương ước luôn có tính kế thừa, nhưng khi cuộc
sống có nhiều thay đổi, một số quy định cũ trong hương ước không còn giá
trị. Hơn thế, nó sẽ không giải quyết được những vấn đề nảy sinh trong
giai đoạn mới. Ví dụ, có nơi hương ước quy định: đi đêm phải có đèn,
trong khi tại đây, đèn điện giăng khắp nơi thì điều này không có ý
nghĩa. Hay quy định phụ nữ 20 tuổi, nam giới 22 tuổi mới được kết hôn,
lại trái với Luật Hôn nhân và Gia đình…
Theo
PGS.TS Bùi Xuân Đính, hương ước thời xưa được ghi chép kỳ công, xử dụng
lối văn biền ngẫu rất hay, dễ thuộc, dễ hiểu, do quan lại nghỉ hưu, ông
đồ, thầy thuốc, các vị bô lão… đứng ra soạn thảo và kiểm duyệt. Đây là
đội ngũ có tri thức, kinh nghiệm, sống lâu ở làng, hiểu được phong tục
tập quán. Đặc biệt, mỗi dòng tộc trong làng đều cử người đại diện tham
gia góp ý kiến. Họ lập thành hội đồng sưu tầm, tìm hiểu kỹ về làng trước
khi đưa ra những quy định. Không ít điều lệ trước khi thống nhất, hội
đồng còn tranh luận. Bản cuối cùng có con dấu và chữ ký của các thành
phần trong làng, cá biệt, có bản hương ước có đến 60 chữ ký. Hương ước
trong xã hội xưa thường thể hiện nghĩa vụ, trách nhiệm, quyền lợi của
mọi tầng lớp trong làng nên dễ tìm được sự đồng thuận của người dân.
Ngày nay, hương ước được thể hiện như lối văn bản hành chính, thiếu sự
linh hoạt, uyển chuyển, không thể hiện được bản sắc và thiếu tính gắn
kết giữa cộng đồng.
Cập nhật hương ước
GS
Ngô Đức Thịnh, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Văn hóa dân gian Việt
Nam cho rằng, hương ước mang tính tự quản của làng xã nên cần sát với
yêu cầu của thực tế cuộc sống, đan xen giữa nếp làng, phong tục với các
vấn đề hiện tại. Ông dẫn chứng một câu chuyện. Theo luật tục của người Ê
Đê ở khu vực Tây Nguyên, đàn ông khi lấy vợ phải ở nhà vợ, vợ mất phải
lấy em vợ, nếu không có ai để lấy thì phải về nhà mẹ đẻ hoặc chị em ruột
của mình, không được mang con theo. Khi xây dựng hương ước ở địa
phương, người ta đã cho họp tất cả người già, phụ nữ, thanh niên, song
mỗi đối tượng họp riêng để có thể lấy ý kiến đúng tâm tư của họ nhất.
Trong buôn có một trường hợp vợ cũng mới mất, con còn rất nhỏ, do đó anh
đã đề xuất, trường hợp này cần cho người bố nuôi con đến khi khôn lớn
thì người bố mới quay về nhà mình. Điều này đã được ban soạn thảo hương
ước và người dân đồng tình.
Một
trường hợp khác: việc nuôi mèo được đưa vào hương ước ở các thôn làng
của xã Tuấn Đạo, Sơn Động, Bắc Giang cũng đã khẳng định tính độc đáo
cũng như sức sống của hương ước. Năm 1999, nạn chuột hoành hành đã trở
thành một thiên địch ở xã vùng cao này. Kỷ lục thi đua diệt chuột là một
ổ chuột 39 cân. Trước tình hình này, xã Tuấn Đạo đã đưa vấn đề nuôi mèo
vào hương ước, gia đình nào không tuân thủ sẽ bị phạt. Sau này, cả làng
đã tự nguyện nuôi mèo. “Con mèo là vật quen thuộc đối với nhiều gia
đình nhưng có lẽ chưa ở đâu việc nuôi mèo lại được ghi trong hương ước
làng như vùng đất này”, GS Ngô Đức Thịnh nói. Ông cũng cho rằng, hương
ước cần hiểu bản sắc, chứa đựng yếu tố riêng của từng cộng đồng về mọi
khía cạnh trong đời sống xã hội của làng. Các quy định trong hương ước
khi nói đúng yêu cầu, tâm tư nguyện vọng của người dân sẽ tìm được sự
đồng thuận. Còn theo PGS. TS Bùi Xuân Đính, để hương ước xưa và quy ước
văn hóa ngày nay phát huy được những giá trị tốt đẹp của nó, đòi hỏi
phải có sự phù hợp và đi sâu vào đời sống hiện tại trong quá trình xây
dựng và hoàn thiện.
theo daibieunhandan.vn